Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo pháp luật dân sự Việt Nam Chu Thu Hiền


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo pháp luật dân sự Việt Nam Chu Thu Hiền": http://123doc.vn/document/568442-boi-thuong-thiet-hai-do-lam-o-nhiem-moi-truong-theo-phap-luat-dan-su-viet-nam-chu-thu-hien.htm


Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường theo pháp luật dân sự Việt Nam

Chu Thu Hiền

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Dân sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Quế Anh
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Trình bày các khái niệm cơ bản về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường tại Việt Nam. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.

Keywords: Luật dân sự; Bồi thường thiệt hại; Ô nhiễm môi trường; Pháp luật Việt
Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường hiện đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ đối với Việt Nam mà đối với nhiều
quốc gia trên thế giới, dù đó là quốc gia đang phát triển hay quốc gia đã phát triển. Trên phạm
vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam, sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường đang
làm cho môi trường có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc biệt là những thay đổi đối
với các yếu tố mang tính tự nhiên như nước, đất, không khí, hệ thực vật, hệ động vật. Nguyên
nhân chính của tình trạng này là sự tác động theo chiều hướng tiêu cực của con người tới môi
trường ngày càng gia tăng. Có nhiều cách thức, biện pháp khác nhau được đưa ra nhằm bảo
vệ môi trường, ngăn chặn, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, trong đó các biện pháp
pháp lý với nội dung chính là quy định trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm,
suy thoái môi trường đã và đang được các nước trên thế giới và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm. Pháp luật Việt Nam đã quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, tổ chức
có hành vi gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường. Các quy
định của pháp luật, bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân, tổ chức bị thiệt hại
do ô nhiễm môi trường yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây
ra nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, các quy định về bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường hiện vẫn còn dừng lại ở mức quy định chung, mang tính
nguyên tắc, gây khó khăn cho việc giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi làm
ô nhiễm môi trường gây nên trên thực tế. Tuy vậy, lại chưa có nhiều công trình nghiên cứu
chuyên về vấn đề này để góp phần đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.
2
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề lý luận cơ bản, cũng như
đánh giá một cách toàn diện pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường sẽ góp phần hoàn thiện thêm một bước pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu có một số chuyên đề nghiên cứu và bài viết liên
quan đến nội dung của đề tài như:
- "Trách nhiệm pháp lý dân sự trong lĩnh vực môi trường", Đề tài nghiên cứu khoa học do
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thực hiện, 2002;
- "Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam - Luật pháp và thực tiễn", của TS. Nguyễn Hồng
Thao;
- "Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra",
Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật của Mai Thị Anh Thư, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, 2002;
- "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
tại Việt Nam", Luận án tiến sĩ Luật học của Vũ Thu Hạnh, 2004;
- "Bồi thường thiệt hại về môi trường", thuộc Chương trình hợp tác Việt Nam - Thụy Điển
về tăng cường năng lực quản lí nhà nước về đất đai và môi trường;
- "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", của TS. Phùng Trung Tập - Trưởng
bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, đăng trên Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 10, 2004;
- "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường gây nên tại
Việt Nam", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007;
- "Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường", của TS. Vũ Thu Hạnh, đăng
trên Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3(40), 2007;
- "Lượng giá thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây ra", Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ do Viện Chiến lược và Chính sách tài nguyên môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi
trường thực hiện, 2008.
Ngoài ra, còn có một số bài viết, bài nghiên cứu của các tác giả làm công tác giảng dạy,
nghiên cứu, xây dựng pháp luật về vấn đề này và một số lĩnh vực liên quan cũng là những tài
liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a. Mục đích
- Luận giải cơ sở lý luận và phân tích thực tiễn về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường;
- Phân tích những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường;
- Kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường.
b. Nhiệm vụ
- Góp phần xây dựng các khái niệm cơ bản về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường;
3
- Đề xuất hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường gồm hai nội dung chính: Bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường từ hành vi vi phạm pháp luật; và bồi thường thiệt hại về môi
trường do sự cố môi trường gây nên. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi
chỉ tập trung nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật làm ô
nhiễm môi trường gây nên. Nghĩa là chỉ nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi
trường đối với những các chủ thể có năng lực chủ thể khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp
luật môi trường, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật môi trường bảo vệ mà không
nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường do tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong
quá trình hoạt động của con người.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp
luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
như: Lôgic - pháp lý, lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp và một số phương pháp nghiên cứu
khoa học phù hợp khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng; phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về môi trƣờng và thiệt hại do ô nhiễm môi trƣờng
1.1.1. Môi trường
Khái niệm "môi trường" có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Theo nghĩa thông thường,
môi trường được cho là "toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con
người hay sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy". "Môi
trường" sử dụng trong khoa học pháp lý là một khái niệm được hiểu như là mối liên hệ giữa
con người và tự nhiên, trong đó môi trường được cho là những yếu tố tự nhiên và yếu tố vật
chất quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự
tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đưa
ra khái niệm "môi trường" như sau: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất
nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển
của con người và sinh vật". Khái niệm này mang tính khách quan, có nội dung đầy đủ, cụ thể
và là cơ sở để chúng ta nghiên cứu về các vấn đề môi trường liên quan trong phạm vi được
4
nghiên cứu cũng như các vấn đề khác trong hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường được nhìn nhận dưới nhiều góc độ. Dưới giác độ sinh học, khái niệm
"ô nhiễm môi trường" chỉ tình trạng của môi trường trong đó những chỉ số hoá học, lý học của
môi trường bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi có ảnh hưởng đến đời sống của con người và
sinh vật.
Dưới góc độ pháp lý, "ô nhiễm môi trường" được cho là "sự biến đổi của các thành phần
môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh
vật" (Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005).
1.1.3. Thiệt hại do ô nhiễm môi trường
"Thiệt hại do ô nhiễm môi trường" có thể hiểu là sự mất mát về vật chất phát sinh từ sự ô
nhiễm môi trường. Theo Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 thì thiệt hại do ô nhiễm,
suy thoái môi trường bao gồm: "1. Suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường; 2. Thiệt
hại về sức khoẻ, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do
hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra".
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm "thiệt hại do ô nhiễm môi trường" như
sau: Thiệt hại do ô nhiễm môi trường là những tổn thất, hư hao về người và của do ô nhiễm
môi trường dẫn đến suy giảm về chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.
1.1.4. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Qua phân tích, tác giả luận văn đưa ra khái niệm về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường như sau: Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một loại trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng, theo đó, chủ thể (tổ chức, cá nhân) thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật môi trường, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường; gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường thì phải trả giá
về hành vi của mình qua việc khôi phục, đền bù, bù đắp những tổn thất và khắc phục những
hậu quả do hành vi vi phạm gây ra.
1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trƣờng
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường được xác định là một trường
hợp cụ thể của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (hay còn gọi là nghĩa vụ dân sự phát sinh
do gây thiệt hại), là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường, gây ra thiệt hại là sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người, tài sản, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra phải có trách nhiệm
khắc phục hậu quả, bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất của các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do
hành vi vi phạm pháp luật của mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường phát sinh khi có đủ 4 điều kiện là: (1) có hành vi trái pháp luật; (2) có thiệt hại xảy
ra trong thực tế; (3) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; và
(4) người có hành vi vi phạm có lỗi.
1.2.2. Đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Là một dạng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nên trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường mang đầy đủ các đặc điểm chung của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
5
trường còn có những điểm khác biệt sau đây:
a) Hành vi trái pháp luật là hành vi vi phạm pháp luật môi trường;
b) Thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường gây ra;
c) Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức cụ
thể chỉ phát sinh sau khi có hậu quả là suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường;
d) Thiệt hại thường xảy ra trên một phạm vi rộng, có giá trị lớn, khó xác định và, tác
động đến nhiều chủ thể;
đ. Yếu tố "lỗi" trong quan hê
̣
tra
́
ch n hiê
̣
m bồi thươ
̀
ng thiê
̣
t ha
̣
i do la
̀
m ô nhiê
̃
m môi
trươ
̀
ngi.
1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do làm ô nhiễm môi trƣờng
Quan điểm pháp lý chính thống hiện nay cho rằng, các điều kiện phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) có hành vi vi phạm
pháp luật, (3) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại đã xảy ra;
và (4) người gây thiệt hại phải có lỗi.
1.3.1. Có hành vi vi phạm pháp luật môi trường
Hành vi vi phạm pháp luật môi trường được hiểu là hành vi không tuân theo các qui định
của pháp luật môi trường, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến thiệt hại về môi trường tự nhiên là
sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường từ đó gây thiệt hại đến tính mạng, sức
khoẻ của cá nhân và thiệt hại về tài sản của cá nhân, tổ chức. Hành vi vi phạm pháp luật môi
trường được coi là căn cứ quan trọng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.3.2. Có thiệt hại xảy ra
Có thiệt hại xảy ra là điều kiện mang tính chất tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra bao gồm hai loại thiệt hại chính sau đây:
(i) Thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường
(ii) Thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.
1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và thiệt
hại xảy ra
Hành vi vi phạm pháp luật về môi trường phải là nguyên nhân trực tiếp gây nên sự suy
giảm về chức năng, tính hữu ích của môi trường, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của con
người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hay nói một cách tổng quát, thiệt hại
xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên
nhân của thiệt hại xảy ra.
1.3.4. Có lỗi
Mọi đối tượng khi có hành vi vi phạm pháp luật môi trường đều bị suy đoán là có lỗi và phải
chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình. Hành vi vi phạm pháp luật môi trường được thực
hiện bởi một chủ thể với lỗi cố ý hoặc vô ý. Hiểu cách khác, nếu người bị thiệt hại không có lỗi
thì trách nhiệm bồi thường luôn đặt ra đối với người có hành vi vi phạm pháp môi trường, gây
thiệt hại. Thậm chí trong một số trường hợp cụ thể, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng không
được loại trừ ngay cả khi người có hành vi vi phạm pháp luật môi trường không có lỗi.
Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong thời điểm hiện nay ở nhiều khu vực,
người dân đang phải sống trong môi trường ô nhiễm, phải gánh chịu nhiều thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, tài sản song lại không thể xác định được lỗi của người gây ra tình trạng ô
nhiễm môi trường.
6
1.4. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do làm
ô nhiễm môi trƣờng tại Việt Nam
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1995
Trước khi Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 được ban hành, pháp luật nước ta hầu như chưa
có quy định về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Hiến pháp năm 1980 chỉ quy
định chung về bảo hộ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân; đồng thời xác định
mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và
xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường (Điều 70 và Điều 73 Hiến
pháp 1980).
Hiến pháp năm 1992 khẳng định nguyên tắc "Mọi hoạt động xâm phạm lợi ích Nhà nước
và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử lý theo pháp luật" (Điều 12). Điều 74 Hiến pháp
1992 quy định "Mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân
phải được xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và
phục hồi danh dự".
Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận rõ ràng về vấn đề
bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường. Thuật ngữ "bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường" cũng chỉ được biết đến từ khi Nhà nước ta ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm
1993.
Có thể cho rằng, pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường bắt đầu được
hình thành và phát triển khi Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 được ban hành. Những quy
định của Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đã bước đầu tạo cơ sở pháp lý cho việc yêu cầu
bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra.
1.4.2. Giai đoạn từ 1995 đến nay
Từ khi Bộ luật Dân sự năm 1995 được ban hành đã khẳng định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của các chủ thể có hành vi gây ô nhiễm môi trường tại Điều 628 Bộ luật Dân sự 1995
với tính cách là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bên cạnh quy định tại Điều 628 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường, Bộ luật Dân sự còn có một số điều quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại (Điều
610), năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân (Điều 611), về xác định thiệt
hại (các điều từ Điều 612 đến Điều 616) là cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường nói
riêng.
Bộ luật Dân sự năm 2005 tiếp tục kế thừa, phát triển quy định về bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường được quy định tại Điều 628 Bộ luật Dân sự năm 1995 theo hướng
mở rộng quy định về trách nhiệm bồi thường của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác khi có
hành vi vi phạm pháp luật làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại kể cả trong những trường hợp
người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi.
Với tư cách là luật chuyên ngành, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 (tại các điều 4, 42, 49,
93 ) một số Luật chuyên ngành khác như Luật Tài nguyên nước năm 1998 (Điều 23), Luật
Khoáng sản (các điều 16, 23, 27, 33, 46 ) cũng có những quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường nói chung và trong quá trình sử dụng các thành phần môi
trường nói riêng.
Những quy định vừa nêu trên của pháp luật đã bước đầu tạo cơ sở pháp lý để người bị thiệt
hại do ô nhiễm môi trường bảo vệ quyền lợi của mình và là cơ sở để các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xem xét trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, chủ thể khác có hành vi vi phạm pháp
luật môi trường gây thiệt hại cho người khác.
7
1.5. Quan niệm của một số nƣớc trên thế giới và Việt Nam về thiệt hại và trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do làm ô nhiễm môi trƣờng
1.5.1. Quan niệm về thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra
1.5.1.1. Quan niệm của một số nước trên thế giới
Trên thế giới hiện có hai quan niệm khác nhau về thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra.
Quan niệm thứ nhất cho rằng, thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra chỉ là các thiệt hại đối
với môi trường tự nhiên như thiệt hại đối với hệ động vật, thực vật, đất, nước, không khí…
mà không bao gồm thiệt hại về người và tài sản. Điển hình cho nhóm quan niệm này là Cộng
đồng chung Châu ÂU - EC, Canada, Hàn Quốc.
Quan niệm thứ hai cho rằng, thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra không chỉ bao gồm
các thiệt hại liên quan đến chất lượng môi trường nói chung mà còn bao gồm cả thiệt hại về
sức khỏe của con người, tài sản của cá nhân do ô nhiễm môi trường gây nên. Những nước
theo quan niệm này điển hình là Cộng hòa liên bang Nga, Nhật Bản, Australia.
1.5.1.2. Quan niệm của Việt Nam về thiệt hại do ô nhiễm môi trường
Trước khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 được ban hành, pháp luật về dân sự nói chung
(Bộ luật Dân sự 1995) và pháp luật về bảo vệ môi trường (Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này) nói riêng, mặc dù chưa rõ ràng nhưng đã phần nào thể
hiện quan niệm của nước ta về thiệt hại do ô nhiễm môi trường. Theo đó, tổ chức, cá nhân có hoạt
động làm ô nhiễm, suy thoái môi trường phải thực hiện các biện pháp khắc phục và bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 được ban hành đã thể
hiện rõ ràng về quan niệm của Việt Nam về thiệt hại do ô nhiễm môi trường.
1.5.2. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
1.5.2.1. Quan niệm của một số nước trên thế giới
Nhiều quốc gia trên thế giới (điển hình như Mỹ, Úc, Đức, Nga…) xác định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về môi trường là một dạng "trách nhiệm pháp lý dân sự", nghĩa là trách
nhiệm đối với môi trường theo các quy định của luật tư.
Cộng đồng Châu Âu quan niệm "người gây ô nhiễm phải trả giá" (tiếng Anh là polluter
pays principle, viết tắt là PPP). Đây là là một nguyên tắc được quy định trong Hiệp ước của
EC (Điều 130r(2)). Tương tự công đồng Châu Âu, các nước trên thế giới đều theo nguyên tắc
"người gây ô nhiễm phải trả".
Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới (được nghiên cứu) theo quan niệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một dạng trách nhiệm pháp lý dân sự và là một dạng
của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
1.5.2.2. Quan niệm của Việt Nam
Tương tự như Cộng đồng Châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới, Việt Nam cũng quan
niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một trách nhiệm pháp lý dân
sự, là một dạng cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việt Nam cũng thực
hiện nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải chi trả". Ngoài việc phải bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, tài sản của cá nhân, lợi ích hợp pháp của tổ chức do sự suy giảm chức năng, tính
hưũ ích của môi trường gây ra, người gây ô nhiễm còn phải bồi thường các thiệt hại do làm
suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Quan niệm này được thể hiện qua các quy
định của Bộ luật Dân sự năm 1995 (Điều 628) được kế thừa và phát triển trong Bộ luật Dân
sự năm 2005 (Điều 624).
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG
8
THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
2.1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do làm ô nhiễm môi trƣờng
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh.
Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự".
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản
quy phạm pháp luật khác có liên quan đã quy định về quyền yêu cầu bồi thường của công dân,
tổ chức là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hoặc những người khác có liên quan (Điều
260, 281 Bộ luật Dân sự) và quy định về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của những cá nhân, tổ
chức, chủ thể khác có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho người khác. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi
thường, bù đắp tổn thất về tinh thần (Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường đã được cụ thể hoá tại Điều
628 Bộ luật Dân sự năm 1995 và tiếp tục được kế thừa và phát triển tại Điều 624 Bộ luật Dân
sự năm 2005: "Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi
trường không có lỗi".
Bên cạnh Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng có những quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường (Điều 4, Điều 49, Điều 93).
Ngoài các căn cứ pháp lý nêu trên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường của người có hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường còn được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật khác như Luật Khoáng sản năm 1996 (Điều 64, 65), Luật Tài
nguyên nước năm 1998
Những quy định nêu trên của pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường của cá nhân, tổ chức và là cơ sở để truy cứu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các tổ chức, cá nhân, chủ thể khác khi có hành vi vi
phạm pháp luật môi trường gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân khác.
2.2. Chủ thể tham gia quan hệ bồi thƣờng thiệt hại do làm ô nhiễm môi trƣờng
Cũng tương tự như các quan hệ pháp luật dân sự khác, trong quan hệ bồi thường thiệt hại
do làm ô nhiễm môi trường, bao gồm hai bên: chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường (bên bị
thiệt hại) và chủ thể có nghĩa vụ bồi thường (bên có trách nhiệm bồi thường do có hành vi làm
ô nhiễm môi trường gây thiệt hại).
2.2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
a) Chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường
Theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp 1992, hầu hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các
thành phần môi trường như đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên thiên nhiên
trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời đều thuộc sở hữu toàn dân,
do Nhà nước thống nhất quản lý hoặc Nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Dân sự thì "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước."
Khoản 3 Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách". Do đó, về mặt nguyên tắc bảo vệ
quyền sở hữu nói chung (Điều 255 Bộ luật Dân sự năm 2005), Nhà nước với tư cách là chủ sở
9
hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp luật gây ô nhiễm
môi trường làm suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường bồi thường thiệt hại.
b) Chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và lợi
ích hợp pháp
Theo quy định tại Điều 259 Bộ luật Dân sự thì: "Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm
hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở
trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyên thì có quyền yêu
cầu Toà án, cơ quan,tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm"; nếu
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu gây thiệt hại thì "Chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu
của mình bồi thường thiệt hại" (Điều 260 Bộ luật Dân sự năm 2005).
2.2.2. Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Theo quy định tại Điều 604, 624 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường
năm 2005 thì: cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại có
trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp
luật. Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đều xác định
chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là các tổ chức,
cá nhân và các chủ thể khác có hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường.
2.3. Hành vi vi phạm pháp luật môi trƣờng
Hành vi vi phạm pháp luật môi trường là hành vi trái pháp luật do chủ thể có năng lực chủ
thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật môi trường
bảo vệ và gây ra tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, gây thiệt hại cho tính mạng, sức
khoẻ của con người, tài sản, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Hành vi vi phạm pháp luật có thể dưới dạng hành động (hành vi vi phạm các quy định
cấm - không được làm) hoặc không hành động (những hành vi phải tuân theo trong quá trình
hoạt động sản xuất, kinh doanh, sử dụng các thành phần môi trường) của các tổ chức, cá nhân
và các chủ thể khác.
2.4. Thiệt hại đƣợc bồi thƣờng và xác định thiệt hại
2.4.1. Thiệt hại được bồi thường
Theo Điều 130 Luật Bảo vệ môi trường thì thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường bao
gồm: Thứ nhất, những thiệt hại do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường; thứ
hai, những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người, thiệt hại về tài sản hay lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường gây ra.
2.4.2. Xác định thiệt hại
Do đặc thù riêng của hai loại thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường nên việc xác định
chúng được tiến hành trên cơ sở của những căn cứ không giống nhau. Cụ thể là:
a) Xác định thiệt hại là sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường
Bộ luật Dân sự năm 2005 không có quy định nào về việc xác định thiệt hại là sự suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có một điều là
Điều 131 quy định về vấn đề này. Khi xác định thiệt hại là sự suy giảm, chức năng tính hữu ích
của môi trường tự nhiên thì phải dựa trên những căn cứ sau đây:
- Căn cứ vào mức độ suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường;
- Căn cứ vào phạm vi, giới hạn và vùng môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích
b) Xác định thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp
10
của tổ chức, cá nhân do gây ô nhiễm, suy thoái môi trường
Căn cứ để xác định thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân do gây ô nhiễm, suy thoái môi trường được áp dụng giống như trong
lĩnh vực dân sự nói chung (quy định tại Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường). Cách thức xác định
thiệt hại này được quy định một cách khái quát tại các Điều từ 608 đến 612 của Bộ luật Dân sự.
Theo đó, việc xác định thiệt hại trong lĩnh vực này được thực hiện dựa trên các căn cứ cơ bản
sau:
+ Căn cứ vào thiệt hại thực tế.
+ Căn cứ vào các chi phí hợp lý phát sinh từ những tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, tài
sản và các lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.
+ Căn cứ vào những tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại hoặc những người thân của
người bị thiệt hại phải gánh chịu (Điều 611Bộ luật Dân sự).
+ Căn cứ vào các lợi ích bị xâm hại từ những tổn hại về tài sản.
2.5. Phƣơng thức bồi thƣờng
Phương thức bồi thường là "cách thức, phương pháp" để thực hiện việc bồi thường. Trên
thực tế thì các phương thức bồi thường thiệt hại được áp dụng khá linh hoạt, cụ thể là:
- Bồi thường toàn bộ thiệt hại thực tế nếu phạm vi ô nhiễm hẹp, thiệt hại chỉ xảy ra với
một số ít người, giá trị thiệt hại không lớn và dễ xác định;
- Bồi thường thiệt hại trên cơ sở tỉ lệ giữa tổng giá trị thiệt hại được bù đắp so với tổng
giá trị thiệt hại thực tế.
- Bồi thường thiệt hại trên cơ sở cấp độ thiệt hại;
- Bồi thường thiệt hại trên cơ sở mức thiệt hại bình quân;
- Bồi thường thiệt hại bằng việc đầu tư vào các công trình công cộng, phúc lợi cho cộng
đồng dân cư như: các công trình thuỷ lợi, bệnh xá, đường giao thông
Tuy nhiên, các phương thức bồi thường nêu trên chỉ phù hợp khi áp dụng cho việc bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, còn đối với thiệt hại là suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường thì các phương thức bồi thường nêu trên chưa phù hợp với bản
chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là việc đền bù những tổn thất và khắc phục
những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu của
sự vật, hiện tượng.
2.6. Thời hạn khởi kiện yêu cầu bồi thƣờng
Theo quy định tại Điều 607 Bộ luật Dân sự thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác bị xâm phạm. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu
Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn
đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 1 Điều
159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005).
Do tính chất đặc thù là thiệt hại trong lĩnh môi trường thường không dễ nhận biết; thiệt
hại thường khó xác định một cách chính xác; thiệt hại khi môi trường bị ô nhiễm bao gồm cả
những thiệt hại trực tiếp, thiệt hại gián tiếp, thiệt hại trước mắt, thiệt hại lâu dài do thời gian
ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường có thể tính bằng ngày nhưng cũng có những trường hợp
phải tính bằng, tháng hoặc năm nên việc xác định thời điểm quyền, lợi ích bị xâm phạm
trong nhiều trường hợp là không dễ.
11
Có thể nhận thấy quy định về thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày quyền, lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm không bảo đảm quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị thiệt hại, không bảo đảm được nguyên tắc thiệt hại phải được bồi
thường kịp thời được quy định trong Bộ luật Dân sự.
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật qua một số vụ việc cụ thể về bồi thƣờng thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trƣờng
3.1.1. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
Trong những năm gần đây, có một số vụ việc về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường đã được giải quyết ở một số địa phương thông qua thương lượng, hoà giải. Trong các
vụ việc này người thiệt hại hầu hết chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản. rất ít trường
hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khoẻ và thiệt hại đối với môi trường hoàn toàn chưa
được đề cập đến. Các tổ chức có hành vi làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại hầu hết chỉ "hỗ
trợ" cho người bị thiệt hại mà chưa "bồi thường" cho người bị thiệt hại theo nguyên tắc "thiệt
hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời" đã được quy định trong Bộ luật Dân sự (Điều
610 Bộ luật Dân sự năm 1995, Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2005). Việc xác định thiệt hại
thường do các cơ quan nhà nước thực hiện và ngân sách nhà nước chi trả. Các bên trong vụ
việc không tự thoả thuận được với nhau mà chủ yếu phải thương lượng, hoà giải thông qua
một cơ quan trung gian là Ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan hành chính (mà chủ yếu là Sở
Tài nguyên và Môi trường), hầu như chưa có vụ việc nào được giải quyết hoàn chỉnh theo thủ
tục tố tụng tại Toà án nhân dân cấp có thẩm quyền hay yêu cầu trọng tài giải quyết như quy
định tại Điều 133 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
3.1.2. Đánh giá về một số vụ việc điển hình đã được giải quyết trong những năm gần đây
(i) Tháng 3/2001, Công ty Dệt nhuộm Thế Hòa tỉnh Đồng Nai xả nước thải chưa qua xử
lý đạt tiêu chuẩn quy định ra khu vực trồng lúa của dân làm ảnh hưởng đến năng suất lúa. Sau
khi Hội đồng đền bù của huyện khảo sát đánh giá mức độ thiệt hại, quá trình thương lượng,
hoà giải Công ty Thế Hòa phải đền bù cho dân 287 triệu đồng.
(ii) Tháng 11/2001 Công ty đường La Ngà tỉnh Đồng Nai xả nước thải chưa đạt tiêu
chuẩn quy định ra khu vực nuôi cá bè của dân làm cá chết hàng loạt. Sau khi định giá mức độ
ô nhiễm, Hội đồng đền bù của huyện thống kê các hộ nuôi cá và số lượng cá, Công ty đồng ý
hỗ trợ cho người dân bị thiệt hại số tiền là 186.447.500 đồng.
(iii) Nhà máy cao su Xà Bang (thuộc Công ty Cao su Bà Rịa-Vũng Tàu) gây ô nhiễm môi
trường kéo dài từ năm 1998, trung bình thải 1000m
3
/ngày đêm làm ô nhiễm nước sinh hoạt
của 17 hộ gia đình. Nhà máy đã có biện pháp khắc phục nhưng không khắc phục được, Sở Tài
nguyên và Môi trường đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh tạm đóng cửa nhà máy 6 tháng (trong
thời gian không có nguyên liệu sản xuất, mủ cao su). Sau khi đầu tư 10 tỉ, nhà máy xin phép
hoạt động lại. Sau thời gian tạm đình chỉ hoạt động nhà máy đã tìm giải pháp cấp đất mới cho
các hộ dân cư chuyển đi nơi khác sinh sống.
Qua thực tiễn giải quyết các vụ việc nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, cơ sở của việc giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường chủ yếu dựa vào
12
đơn thư khiếu tố của người dân đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ô nhiễm môi
trường gây thiệt hại
Thứ hai, nội dung chủ yếu là giải quyết bồi thường thiệt hại đối với sức khỏe, tài sản của
các tổ chức, cá nhân. Hầu như chưa có trường hợp nào giải quyết bồi thường thiệt hại đối với
môi trường tự nhiên.
Thứ ba, việc định giá thiệt hại chủ yếu dựa trên mức độ gây hại. Nếu là cơ sở sản xuất nhỏ,
mức độ thiệt hại không lớn thì chủ yếu do Ủy ban nhân dân xã, cán bộ xã xác định và bên gây hại
chấp nhận. Nhưng do cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp thường không có chuyên môn về môi
trường, nên việc xác định thiệt hại nhiều khi là chưa thoả đáng. Đối với những vụ việc lớn thì
thanh tra môi trường mời cơ quan chuyên môn (như Viện Tài nguyên và Môi trường, Viện nuôi
trồng thuỷ sản…) để xác định thiệt hại, kinh phí để xác định thiệt hại lấy từ nguồn ngân sách nhà
nước.
Thứ tư, vụ việc chủ yếu được giải quyết thông qua hoà giải tại Ủy ban nhân dân và các cơ
quan hành chính, hầu như chưa có vụ việc nào được giải quyết hoàn chỉnh theo thủ tục tố tụng
tại Toà án nhân dân cấp có thẩm quyền.
Thứ năm, trong hầu hết các trường hợp, tổ chức, cá nhân gây thiệt hại mới chỉ "hỗ trợ"
cho người bị thiệt hại mà chưa thực hiện nguyên tắc "người gây thiệt hại phải trả giá" và
"thiệt hại được bồi thường toàn bộ" của pháp luật dân sự và mới chỉ dừng lại ở yêu cầu bồi
thường thiệt hại về tài sản và sức khoẻ của người dân mà chưa giải quyết việc bồi thường đối
với thiệt hại môi trường tự nhiên.
3.1.3. Những vụ việc điển hình chưa giải quyết hoặc đang trong quá trình giải quyết
a) Vụ ô nhiễm dầu ở các tỉnh ven biển Việt Nam năm 2007
Từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 5/2007, tại 20 tỉnh, thành phố ven biển ở nước ta xảy ra
hiện tượng dầu thô trôi dạt vào bờ. Dầu thô đã xuất hiện dọc bờ biển từ Hà Tĩnh đến Cà Mau
và tại các đảo như Cù Lao Chàm, Côn Đảo, Bạch Long Vỹ Quy mô của đợt ô nhiễm dầu là
rất lớn và kéo dài, tác động nghiêm trọng tới môi trường biển, gây ảnh hưởng đến sự phát
triển bền vững của một số ngành công nghiệp.
Trong vụ việc này rất khó xác định đối tượng gây ô nhiễm (xuất phát từ Trung Quốc) vì dầu
trôi nổi trên biển rò rỉ, các tàu chạy trên biển xả thải dầu cặn trực tiếp xuống biển Trên thực tế,
để xác định chủ thể gây ô nhiễm, Cục Bảo vệ môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường phối
hợp với các cơ quan có liên quan đã phải sử dụng công nghệ viễn thám, phân tích mẫu dầu đối
chứng… Nhưng nhìn chung, để xác định được chủ thể gây ô nhiễm môi trường biển chúng ta đã
tốn kém không ít kinh phí do một số hoạt động vượt quá khả năng trình độ hiện hành của nước ta
(như việc phân tích ảnh do vệ tinh chụp phải có sự giúp đỡ của chuyên gia nước ngoài, việc phân
tích mẫu dầu cũng phải gửi ra nước ngoài thực hiện…)
Tổng thiệt hại ước tính đến ngày 12/4/2007 là khoảng hơn 3 tỷ đồng (chưa tính đến các thiệt
hại về kinh tế, sức khoẻ và môi trường chưa được thống kê). Tuy nhiên, do tác động của mối quan
hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, nước ta đã không sử dụng biện pháp yêu cầu bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường biển.
b) Vụ Công ty cổ phần hưũ hạn Vedan gây ô nhiễm môi trường sông Thị Vải, Đồng Nai
Tháng 9 năm 2008, Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam (gọi tắt là Công ty Vedan)
bị bắt quả tang vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu
chuẩn môi trường ra sông Thị Vải với lưu lượng 44.800m
3
mỗi tháng. Chất độc hại được xả
thẳng ra sông Thị Vải chảy qua Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng tàu gây
ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường, dẫn đến thiệt hại của hàng nghìn người dân sinh sống
13
nhờ vào nguồn nước sông này.
Ban đầu, Công ty Vedan chỉ đồng ý hỗ trợ thiệt hại cho người dân trên cơ sở trách nhiệm
do mình gây ra. Qua quá trình thương lượng, hoà giải, Công ty Vedan đã đồng ý bồi thường
thiệt hại theo những con số cụ thể mà nông dân các tỉnh đưa ra trên cơ sở đánh giá thiệt hại
của Viện Khoa học Môi trường (Thành phố Hồ Chí Minh là hơn 45 tỷ đồng, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu hơn 53 tỷ đồng và tỉnh Đồng Nai gần 120 tỷ đồng). Nhưng vụ việc chưa phải đã
kết thúc, vì vẫn còn có những nông dân tiếp tục khởi kiện Vedan để yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
c) Công ty Tung Kuang gây ô nhiễm môi trường
Ngày 14/4/2010, Cảnh sát môi trường của Bộ Công an đã bắt quả tang Công ty cổ phần
Tung Kuang (100% vốn Đài Loan) ở huyện Cẩm Giàng, Hải Dương) xả nước thải ra sông Giẽ
qua các ống xả ngầm với lưu lượng xả khoảng 250 m
3
/ngày; nước thải của Tung Kuang được
xác định chưa qua xử lý, có chứa các chất độc hại, cao gấp 10 lần tiêu chuẩn cho phép so với
quy định. Hành vi xả nước thải không qua xử lý của Tung kuang đã vi phạm Luật Bảo vệ môi
trường, Luật Tài nguyên nước. Ngày 26/4/2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương phối hợp
với Thanh tra Tổng cục Môi trường và các cơ quan liên quan đã có cuộc họp với đại diện
Công ty Tung Kuang về hành vi xả thải trộm, gây ô nhiễm nghiêm trọng cho các khu vực lân
cận. Tại cuộc họp này, các bên đã đi đến thống nhất về hình thức xử lý doanh nghiệp này.
Theo đó, Tung Kuang sẽ tạm thời bị đình chỉ những hoạt động có phát sinh xả nước thải cho
đến khi khắc phục xong hậu quả và tìm ra biện pháp xử lý an toàn. Ngày 26/5, Công ty Tung
Kuang đã tự tháo dỡ toàn bộ hệ thống xả nước thải sản xuất không qua xử lý ra môi trường,
công nhân của công ty này cũng đồng thời đổ bê tông vào miệng ống xả nước thải chưa qua
xử lý. Ngày 11/7/2010 trao đổi với Thời báo Kinh tế Sài gòn Online, Phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Hải Dương Nguyễn Trọng Thừa cho biết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Hải Dương chuẩn bị khởi tố điều tra về vụ Công ty Tung Kuang xả nước thải gây ô
nhiễm môi trường.
3.2. Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do làm ô nhiễm môi trƣờng
3.2.1. Sự cần thiết tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam
về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Một loạt các vụ việc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã xảy ra ở Việt Nam trong
thời gian qua cho thấy ý thức bảo vệ môi trường của các cá nhân, tổ chức kể cả các cơ quan
nhà nước còn chưa tốt, còn đặt lợi ích kinh tế của tổ chức lên trên lợi ích chung của cộng
đồng. Sở dĩ có tình trạng này cũng là do pháp luật còn quy định chung chung, chưa cụ thể về
vấn đề bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường nói chung, về trách nhiệm của tổ chức,
cá nhân hoặc chủ thể khác có hành vi gây ô nhiễm môi trường nói riêng và công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân, trách nhiệm của cơ quan nhà
nước thực hiện chưa tốt, pháp luật chưa được thực hiện nghiêm minh. Do đó, việc nghiên
cứu, hoàn thiện thêm một bước các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và pháp
luật về dân sự với những quy định cụ thể, rõ ràng hơn, đảm bảo cho người bị thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường có cơ sở đầy đủ, hợp pháp để yêu cầu bảo về quyền, lợi ích
hợp pháp của mình là rất cần thiết.
3.2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật
Trên co sở các nghiên cứu nêu trên, chúng tôi mạnh dạn đề xuất hướng nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường về các nội dung sau
14
đây:
3.2.2.1. Quy định về chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường trong trường hợp thiệt hại là sự
suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường
3.2.2.2. Xác định nguyên tắc phân chia trách nhiệm khi có nhiều người cùng có hành vi vi
phạm pháp luật môi trường gây thiệt hại
3.2.2.3. Quy định cụ thể về xác định thiệt hại đối với từng thành phần môi trường
3.2.2.4. Xây dựng một hệ thống phương pháp để xác định mức độ thiệt hại do ô nhiễm
môi trường gây ra
3.2.2.5. Sửa đổi quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi
trường
3.2.2.6. Gia nhập các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường
3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
Để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường, tác giả luận văn xin đưa ra một số giải pháp sau đây:
3.2.3.1. Tăng cường năng lực của các thiết chế liên quan đến giải quyết bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường
3.2.3.2. Xác định vai trò của Ủy ban nhân dân các cấp trong quá trình tham gia hoà giải,
giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.
3.2.3.3. Xác định cụ thể các tổ chức, cá nhân có hoạt động tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại
lớn cho môi trường phải mua bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường
Tóm lại, bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là loại trách nhiệm pháp lý dân
sự áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và gây
thiệt hại. Để bảo vệ các giá trị môi trường cho cả cộng đồng và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực môi trường, việc xây dựng và áp dụng đồng bộ các qui định
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là một đòi hỏi bức thiết cần sớm
được giải quyết ở nước ta hiện nay.

KẾT LUẬN
Những nội dung được trình bày trong luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu về các
vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường tại Việt Nam kể từ
khi Nhà nước ta ban hành văn bản pháp luật đầu tiên quy định về vấn đề này (Luật Bảo vệ môi
trường năm 1993) cho đến nay.
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Trong
phần này, ngoài việc phân tích những vấn đề lý luận theo quan điểm của Việt Nam về bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, Luận văn cũng đã đưa ra quan điểm của một số
nước trên thế giới về thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.
- Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường;
Từ nghiên cứu về những vấn đề lý luận cơ bản, thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng
pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, có thể rút ra các kết luận cơ bản
sau đây:
1. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một dạng cụ thể của trách nhiệm
pháp lý dân sự ngoài hợp đồng phát sinh khi có hành vi vi phạm pháp luật về môi trường làm
suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét