Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

10 loại trà dược chống mệt mỏi

Trước hết phải tiến hành bào chế dâm dương hoắc. Theo cổ nhân, có thể dùng dưới dạng sống
hoặc sao, nhưng tốt nhất là nên dùng dạng sao. Có năm cách sao: (1) Sao với mỡ dê, một lạng
dâm dương hoắc thường phải cần 20g mỡ dê. Ðem mỡ dê rán lấy mỡ nước, bỏ tóp rồi cho
dâm dương hoắc đã thái vụn vào sao nhỏ lửa cho đến khi thấm hết mỡ là được; (2) Sao với
muối, thường dùng nước muối 2% với lượng vừa đủ, sao dâm dương hoắc cho đến khi khô
hết nước, dược liệu chuyển màu hơi đen là được; (3) Sao với rượu, mỗi lạng dâm dương hoắc
cần dùng từ 20-25ml rượu, phun đều rồi sao nhỏ lửa cho đến khi dược liệu khô là được; (4)
Sao với bơ, mỗi lạng dâm dương hoắc cần dùng 25g bơ, đem bơ đun nóng chảy rồi cho dược
liệu vào sao cho đến khi khô là được; (5) Sao thường, cho dâm dương hoắc vào chảo, sao lửa
nhỏ cho đến khi chuyển màu hơi đen là được.
Sau đó đem ngâm với rượu, thông thường cứ 500g dâm dương hoắc thì cần 5 lít rượu gạo loại
một. Ðây là công thức cổ nhân thường dùng, được ghi trong y thư cổ Thọ thế bảo nguyên. Tốt
nhất là chọn loại bình gốm miệng hẹp, lòng rộng để ngâm. Mùa xuân và mùa hạ sau 3 ngày,
mùa thu và mùa đông sau 5 ngày là có thể dùng được. Mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần từ 15-
20ml.
NÊN NGÂM PHỐI HỢP DÂM DƯƠNG HẮC VỚI NHỮNG VỊ THUỐC NÀO?
Ðể nâng cao hiệu quả của rượu dâm dương hoắc, người ta thường phối hợp với một số vị
thuốc như tiên mao, ba kích, nhục thung dung, tử thạch anh, uy linh tiên, cao lương khương,
sinh khương Phối hợp với tiên mao, ba kích và nhục thung dung nhằm nâng cao khả năng
bổ thận tráng dương, tăng cường năng lực tình dục, phòng chống liệt dương và di mộng tinh.
Phối hợp với tử thạch anh để làm ấm tử cung, phòng chống tích cực các chứng bệnh ở phụ nữ
như thống kinh, bế kinh, băng huyết, rong kinh, khó thụ thai do thận dương hư suy. Phối hợp
với uy linh tiên để tăng cường khả năng khu phong trừ thấp, phòng chống hữu hiệu bệnh lý
viêm khớp do hư lạnh. Phối hợp với cao lương khương (củ riềng) hoặc sinh khương (gừng
tươi) để nâng cao khả năng trừ hàn, phòng chống tích cực bệnh lý viêm loét dạ dày, tá tràng
và đại tràng do hư lạnh.
NHỮNG ÐIỀU CẦN LƯU Ý KHI DÙNG RƯỢU DÂM DƯƠNG HOẮC
Thứ nhất là không nên uống quá liều chỉ định. Thứ hai, những người thể chất âm hư hoặc
đang mắc các bệnh lý thuộc thể âm hư không nên dùng. Bệnh cảnh âm hư được biểu hiện
bằng các triệu chứng như: người gầy, hay có cảm giác sốt nhẹ về chiều, lòng bàn tay và bàn
chân nóng, môi khô họng khát, thích uống nước mát, trong ngực bồn chồn không yên, đại tiện
táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ khô
Chú thích ảnh: Dâm dương hoắc lá mác.

Rượu thuốc cho người cao tuổi
Để bổ khí huyết, những người cao tuổi có khí huyết hư có thể dùng rượu bất lão thang, gồm
các vị sau: long nhãn, nhân sâm, bạch truật, hoàng kỳ, nhục quế, đương quy, thục địa, mạch
môn, hà thủ ô, xuyên khung, phòng phong, đại táo. Không nên dùng rượu này cho người cao
huyết áp hoặc đang sốt.

5
Rượu thuốc có hai thành phần: rượu và thuốc. Rượu có tác dụng làm dung môi hòa tan các
chất thuốc, giúp thuốc hấp thu vào cơ thể nhanh. Thuốc có tác dụng nâng cao sức khỏe, bổ
sung cái mà cơ thể đang thiếu hụt, loại trừ yếu tố gây bệnh. Không phải bất cứ loại rượu thuốc
nào cũng đều tốt cho bất cứ ai uống nó; có loại dùng được cho người này, song không dùng
được cho người khác. Vì vậy, khi mua rượu thuốc, cần tham khảo ý kiến của thầy thuốc để
biết trạng thái cụ thể của mình, sau đó mới chọn rượu. Sau đây xin giới thiệu vài loại rượu cụ
thể:
- Rượu tắc kè: Tắc kè, vỏ quýt, đẳng sâm, huyết giác tiểu hồi, đường trắng. Công năng của
rượu tắc kè là bổ phế, ích khí, tráng dương, dùng để chữa suy nhược cơ thể, ho hen, thận yếu
(hay đái rắt), người già sức khỏe kém. Không được dùng cho người âm hư, người mới mắc ho
hen.
- Rượu rắn: Rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn ráo, cẩu tích, tiểu hồi, hà thủ ô đỏ, kê huyết đằng,
vỏ quýt, ngũ gia bì, thiên niên kiện. Công năng của rượu rắn là trừ phong tê thấp, dùng để
chữa chứng đau nhức xương cơ khớp (thấp khớp), bán thân bất toại, đổ mồ hôi chân tay,
người già đau mỏi cơ xương khớp khi thời tiết thay đổi. Những người tạng nhiệt (trong người
thường cảm thấy nóng) không nên dùng.
- Rượu bổ huyết trừ phong: Cẩu tích, ngũ gia bì, tang chi, ngưu tất, hà thủ ô đỏ, thiên niên
kiện, kê huyết đằng. Công năng của rượu là bổ huyết, trừ phong thấp, dùng chữa chứng đau
cơ xương khớp, đau gân. Phụ nữ có thai không nên dùng vì có thể gây ảnh hưởng xấu đến
thai, trẻ em dưới 15 tuổi mắc phong thấp cũng không nên dùng.
- Rượu đại bổ trường sinh: Nhân sâm, đẳng sâm, ngũ gia bì, dỏ dẻ, râu ngô, rễ cỏ tranh. Công
năng của rượu này là bổ khí, tráng dương, dùng để bồi bổ cơ thể, tăng sức, chữa chán ăn,
huyết áp thấp. Không nên dùng cho người có âm huyết hư.
GS Hoàng Bảo Châu, Sức Khoẻ & Đời Sống
Rượu thuốc dùng trong mùa thu
Cúc hoa 50 g rửa sạch, để ráo, ngâm với 500 ml rượu trắng, sau 10 ngày là dùng được; uống
ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml. Rượu này có công dụng làm mát gan, sáng mắt, giải cảm,
phong nhiệt; thích hợp cho người hay bị cảm mạo phát sốt, hay đau đầu, hoa mắt, chóng mặt,
có cảm giác bốc nóng lên đầu, thị lực giảm sút.
Theo Đông y, vào mùa thu, dương khí giảm dần, âm khí tăng trưởng, thời tiết chuyển dần từ
nóng sang lạnh; đây là giai đoạn quá độ của "dương tiêu âm trưởng". Lúc này, mưa ít, gió
nhiều, độ ẩm trong không khí giảm đi, dễ gây hao tổn chất dịch trong thân thể.
Vì vậy, việc dùng rượu trong mùa thu phải tuân thủ nguyên tắc "thu đông dưỡng âm", "phòng
táo giữ âm, tư thận nhuận phế"; nghĩa là phải chú ý bổ sung đầy đủ chất dịch cho cơ thể, trọng
dụng những đồ ăn thức uống có công dụng dưỡng âm, nhuận táo. Sau đây là vài loại rượu
dưỡng sinh mùa thu:
- Rượu hoàng tinh: Hoàng tinh 20 g, rượu trắng 500 ml. Hoàng tinh rửa sạch, thái phiến, cho
vào túi vải buộc kín rồi thả ngâm trong rượu, sau nửa tháng có thể dùng được.

6
Công dụng: Kiện tỳ, nhuận phế, bổ thận; thích hợp cho những người tỳ vị hư yếu, chán ăn,
mệt mỏi, ho khan lâu ngày, lưng đau gối mỏi, đầu choáng mắt hoa. Trường hợp đại tiện lỏng
loãng, ho khạc đờm nhiều không nên dùng.
- Rượu vừng đen: Vừng đen 50 g, rượu trắng 500 ml. Vừng đen đãi sạch, để khô rồi ngâm với
rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được.
Công dụng: Bồi bổ can thận, nhuận dưỡng tỳ phế, nâng cao sức khỏe và chống lão hóa; thích
hợp cho những người bị chứng can thận phế âm hư, biểu hiện bằng các triệu chứng hay đau
đầu, hoa mắt chóng mặt, lưng đau gối mỏi, râu tóc bạc sớm, ho khan ít đờm, đại tiện táo kết.
Trường hợp đại tiện lỏng loãng không nên dùng.
- Rượu liên tử: Hạt sen 50 g, rượu trắng 500 ml. Hạt sen bỏ vỏ và tâm, đập vụn rồi đem ngâm
với rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được.
Công dụng: Dưỡng tâm an thần, kiện tỳ chỉ tả, ích thận chỉ di; thích hợp cho những người bị
mất ngủ, hay hồi hộp đánh trống ngực, di tinh, đái dầm, xuất tinh sớm, phụ nữ bị khí hư, đi
lỏng do tỳ vị hư yếu. Trường hợp đại tiện táo kết không nên dùng.
- Rượu nhân sâm kỷ tử: Nhân sâm 10 g, kỷ tử 20 g, rượu trắng 500 ml. Nhân sâm thái phiến,
kỷ tử rửa sạch, cho vào bình kín ngâm với rượu, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Đại bổ nguyên khí, dưỡng can và làm sáng mắt; thích hợp cho những người bị
chứng khí hư với những biểu hiện cụ thể như khó thở, ngại nói, dễ đổ mồ hôi (phế khí hư);
chán ăn, chậm tiêu, da nhợt, tay chân teo nhẽo, sa dạ dày, sa trực tràng (tỳ khí hư); lưng đau
gối mỏi, tiểu tiện nhiều lần về đêm, khả năng tình dục sút kém (thận khí hư); hay hồi hộp
đánh trống ngực, mất ngủ, môi nhợt (tâm khí hư)
- Rượu hà thủ ô: Hà thủ ô 150 g, rượu trắng 500 ml. Hà thủ ô rửa sạch, thái vụn, ngâm với
rượu trong bình kín, sau 15-20 ngày có thể dùng được.
Công dụng: Bổ thận ích tinh, tư âm dưỡng huyết, chống lão hóa; thích hợp cho người bị
chứng can thận bất túc, biểu hiện bằng các dấu hiệu đầu choáng, tai ù, mất ngủ, hay quên, râu
tóc bạc sớm, di tinh, liệt dương (trong y học hiện đại là các bệnh suy nhược thần kinh, thiếu
máu, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, táo bón kinh niên ).
-
Rượu dâu: Quả dâu chín 200 g, rượu trắng 500 ml. Hai thứ ngâm trong bình kín, sau nửa
tháng có thể dùng được.
Công dụng: Thanh nhiệt, nhuận phế, tư âm, dưỡng huyết; thích hợp cho những người âm hư,
biểu hiện bằng các triệu chứng môi khô miệng khát, có cảm giác hâm hấp sốt về chiều, lòng
bàn tay bàn chân nóng, ho khan, hay ra mồ hôi trộm, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ.
-
Rượu tây dương sâm: Tây dương sâm 50 g, rượu trắng 500 ml. Tây dương sâm thái phiến,
ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Bổ khí dưỡng âm, thanh nhiệt; thích hợp cho những người khí âm lưỡng hư, biểu
hiện bằng các triệu chứng mệt mỏi, khó thở, miệng khô, họng khô, ho khan, hay có cảm giác
hơi sốt về chiều, đổ mồ hôi trộm. Trường hợp đau bụng và đi lỏng do lạnh không nên dùng.

7
Các loại rượu trên dùng mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml. Không nên uống nhiều hơn.
ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khỏe & Đời Sống
Trà có thể giúp xương thêm chắc
Nghiên cứu mới của Đài Loan cho thấy, những người uống trà lâu ngày thường có bộ xương
khỏe hơn. Điều này đúng với những người uống trung bình 2 chén trà/ngày trong vòng ít nhất
6 năm, bất kể đó là trà xanh, đen hay trà ô long.
Các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học Quốc gia Cheng Kung (Đài Loan) đã tiến hành
nghiên cứu trên hơn 1.000 nam và nữ tuổi 30 và lớn hơn. Một nửa trong số này có thói quen
uống trà thường xuyên trong vòng ít nhất 1 năm. Phần lớn đều dùng trà xanh hay trà ô long
không pha thêm sữa.
Kết quả cho thấy, mật độ xương hông tăng 6,2% ở những người dùng trà đều đặn trong hơn
10 năm và tăng 2,3% ở những người dùng trà trong hơn 5 năm so với những người không
dùng đồ uống này. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể giữa những người uống trà 1-5
năm so với những người không uống trà. Theo các nhà nghiên cứu, tác dụng củng cố xương
của trà có được là nhờ 2 thành phần fluor và flavonoid. Cả 3 loại trà (đen, xanh, ô long) đều
được chế biến từ một loại cây, nhưng trải qua các công đoạn xử lý khác nhau.
Gãy xương do loãng xương và giảm nồng độ xương đang trở thành vấn đề toàn cầu do số
lượng người già ngày càng tăng. Một số tính toán cho rằng gần 1/2 dân số Mỹ tuổi từ 50 trở
lên bị chứng bệnh này.
Trà cúc giúp giảm đau trong 'ngày ấy'
Thứ nước trà thơm làm từ hoa cúc trắng có tác dụng phòng cảm và loại bỏ các cơn đau thắt do
kinh nguyệt gây ra, các nhà nghiên cứu Anh tuyên bố.
5 chén mỗi ngày trong vòng nửa tháng đủ để tăng hàm lượng hoá chất trong nước tiểu giúp
giảm co thắt cơ và chống viêm nhiễm.
Từ lâu, mọi người vẫn coi trà cúc như một loại thảo dược chống viêm nhiễm, giảm đau và
chống lở loét. Nó cũng được biết đến là có tác dụng chống oxy hoá và tinh dầu chiết xuất từ
hoa cúc trắng có thể chống vi trùng.
Tiến sĩ Elaine Holmes và cộng sự tại Đại học Imperial, London (Anh), đã tìm hiểu thêm công
dụng của trà cúc. Trong nghiên cứu này, trà được làm từ hoa cúc Đức (Matricaria recutita).
Các nhà nghiên cứu đã xét nghiệm nước tiểu của những người tham gia hằng ngày, trước và
sau khi họ dùng trà cúc. Kết quả cho thấy uống trà làm tăng hàm lượng glycince giúp giảm co
thắt, và hippurate chống viêm nhiễm trong nước tiểu. Sau khi mọi người dừng uống trà sau 2
tuần, hàm lượng glycine và hippurate vẫn ở mức cao trong 2 tuần nữa, chứng tỏ hiệu quả kéo
dài.
Maureen Robertson, tại trường Thảo dược Scotland, nhận định hoa cúc giúp giảm thân nhiệt,
nó hoàn toàn lành, tốt cho vùng viêm nhiễm. Tinh dầu từ hoa cúc cũng là một chất khử trùng

8
tốt. Có thể dùng dầu chiết xuất từ hoa cúc bôi vào bụng dưới để chữa đau kinh nguyệt. Nhưng
các bà mẹ mang bầu nên cẩn thận bởi nó có thể tác động tới bào thai.
M.T. (theo BBC)
Trà dược an thần
Tâm sen 2 g, cam thảo sống 3 g sấy khô, tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín chừng 15-
20 phút. Loại trà này dành cho người bị mất ngủ có đánh trống ngực, lòng bàn tay, bàn chân
có cảm giác nóng như có lửa đốt, miệng khô họng khát, niêm mạc miệng viêm loét, tinh thần
buồn phiền bất an.
Một số loại trà dược chống mất ngủ khác:
- Toan táo nhân sao thơm, mỗi ngày sau bữa cơm tối lấy chừng 15-30 g hãm với nước sôi
trong bình kín, sau khoảng 15-20 phút thì dùng được, uống thay trà. Có thể hòa thêm một chút
đường trắng cho dễ uống. Dùng cho những người bị mất ngủ, thể chất suy nhược, hay vã mồ
hôi, trong lòng có cảm giác bồn chồn không yên, hồi hộp trống ngực, giấc ngủ không sâu, mê
mộng nhiều.
- Nấm linh chi thái nhỏ, nghiền vụn, mỗi ngày dùng 3 g, hãm với nước sôi trong bình kín, sau
chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Dùng cho những người bị mất ngủ có
kèm theo tăng huyết áp, bệnh tim, bệnh gan, ho hen, thể chất hư nhược.
- Cành và lá lạc tươi rửa sạch, phơi hoặc sấy khô, mỗi ngày lấy 30 g sắc với 400 ml nước, cô
còn một nửa, chế thêm một chút đường phèn, chia uống 2 lần trong ngày, 7 ngày là một liệu
trình. Dùng cho những người bị mất ngủ có kèm theo đau đầu, chóng mặt, hay mê mộng, dễ
cáu giận, trong lòng bồn chồn không yên, có thể có tăng huyết áp.
- Đăng tâm thảo 5 g, lá tre tươi 30 g. Hai thứ cho vào bình kín, hãm với nước sôi, sau chừng
20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Thường dùng cho những người bị mất ngủ
do mắc các bệnh có sốt cao khiến cho môi khô miệng khát, tâm thần bất định, mê sảng, bồn
chồn không yên, đại tiện táo, tiểu tiện khó.
- Phục thần 100 g, táo nhân 100 g. Hai vị thuốc tán vụn trộn đều, mỗi ngày lấy 50 g cùng với
bột chu sa 1 g (gói trong túi vải) hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày. Dùng cho người bị mất ngủ do tâm khí bất túc, tim đập
nhanh, dễ hồi hộp, trí nhớ giảm sút.
- Ngũ vị tử, kỷ tử và toan táo nhân lượng bằng nhau, sấy khô, tán vụn, trộn đều, mỗi ngày lấy
6 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong
ngày. Dùng cho những người bị mất ngủ sau khi mắc bệnh, đầu choáng mắt hoa, trí nhớ suy
giảm, giấc ngủ không sâu, nhiều mộng mị.
- Mỗi ngày lấy 60 g tang thầm (quả dâu chín) và 20 g mật ong hãm với nước sôi trong bình
kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Dùng cho những người bị mất ngủ
có kèm theo thiếu máu, râu tóc sớm bạc, đầu choáng mắt hoa, trí nhớ giảm sút, đại tiện táo
kết
BS. Hoàng Mai, Sức Khỏe & Đời Sống

9
Trà dược cho người bị hen phế quản
Tiết trời khô và lạnh của mùa thu rất thuận lợi cho hen phế quản phát triển. Theo Đông y, khô
hanh dễ gây thương tổn âm dịch, lạnh lẽo gây thương tổn dương khí. Hai thứ tà khí này phối
hợp với nhau rất dễ làm tổn thương tạng phế, gây nên các chứng bệnh mà ngày nay y học hiện
đại gọi là viêm phế quản, hen phế quản, giãn phế quản, khí phế thũng.
Sau đây là một số bài thuốc đơn giản dành cho người bị hen phế quản dùng dưới dạng trà
dược:
Bài 1
- Cách pha chế: Tô tử 6 g, hạnh nhân 6 g, quất bì 4 g. Ba vị tán vụn, cho vào túi vải, hãm với
nước sôi trong bình kín, sau 15-20 phút có thể dùng được. Chế thêm 1 thìa mật ong, uống
thay trà trong ngày.
- Công dụng: Nhuận phế chỉ khái, trừ đàm bình suyễn. Dùng cho người bị hen phế quản có ho
và khạc đờm nhiều.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, cả ba vị đều có tác dụng long đờm, chống co thắt phế
quản và giảm ho. Tuy nhiên, những người dễ bị rối loạn tiêu hóa và đi lỏng không nên dùng
bài này.
Bài 2
- Cách pha chế: Nấm linh chi 6 g, bán hạ chế 5 g, tô diệp 5 g, hậu phác 3 g, bạch linh 9 g,
đường phèn vừa đủ. Các vị tán vụn, cho vào túi vải, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20
phút có thể dùng được. Chế thêm đường phèn, uống thay trà trong ngày.
- Công dụng: Phù chính ích phế, trừ đàm bình suyễn. Dùng cho những người bị viêm phế
quản co thắt, hen phế quản.
Bài này có nguồn gốc từ một phương thuốc cổ gọi là "Bán hạ hậu phác thang" được ghi trong
y thư cổ "Kim quỹ yếu lược", bỏ sinh khương gia thêm nấm linh chi. Công dụng của từng vị
như sau:
* Bán hạ phối hợp hậu phác có tác dụng trừ đàm, làm thông thoáng đường thở.
* Bạch linh kiện tỳ lợi thấp, có khả năng nâng cao năng lực miễn dịch, làm tăng hàm lượng
IgG trong máu.
* Nấm linh chi ngoài tác dụng giảm ho bình suyễn còn có khả năng thúc đẩy quá trình tái tạo
tế bào niêm mạc phế quản, ức chế phản ứng quá mẫn, cải thiện năng lực miễn dịch và bồi bổ
cơ thể.
Người bị hen phế quản kèm theo sốt, ho và khạc đờm mủ vàng không nên dùng loại trà này.
Bài 3

10
- Cách pha chế: Vỏ rễ cây bông 30 g thái vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút
có thể dùng được. Chế thêm một chút đường đỏ, uống thay trà trong ngày.
- Công dụng: Bổ trung ích khí, chỉ khái bình suyễn. Dùng thích hợp cho những người bị viêm
phế quản mạn tính, hen phế quản.
Theo kinh nghiệm dân gian, vỏ rễ cây bông có thể chữa hen suyễn, thiếu máu, phụ nữ bế kinh,
sa tử cung
Kết quả nghiên cứu trên thực nghiệm và lâm sàng cho thấy, vị thuốc này có khả năng làm
giảm ho, tiêu viêm và chống co thắt phế quản. Phụ nữ có thai không được dùng bài này.
Bài 4
- Cách pha chế: Địa long khô (giun đất) 2 phần, cam thảo sống 1 phần. Hai vị thái vụn, mỗi
lần lấy 3-4 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được. Mỗi ngày có thể
pha chế 2-3 lần, dùng ngay trong ngày.
- Công dụng: Thanh nhiệt, bình suyễn. Dùng cho người bị hen phế quản thể đàm nhiệt (biểu
hiện bằng các triệu chứng sốt, ho rát họng, khó thở, khạc đờm vàng đục, đại tiện táo ).
Theo quan niệm của y học cổ truyền, địa long vị mặn, tính lạnh có công dụng thanh nhiệt,
bình can, định kính, chỉ suyễn, thông lạc, được dùng để chữa khá nhiều chứng bệnh, trong đó
có chứng hen suyễn.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, địa long có tác dụng chống dị ứng, chống co thắt phế
quản và tham gia vào quá trình điều tiết miễn dịch nên rất hữu ích cho người bị hen phế quản.
Tuy nhiên, những người bị bệnh thể hàn không nên dùng bài này.
Bài 5
- Cách pha chế: Xuyên bối mẫu 15 g, lai phục tử 15 g. Hai vị tán vụn, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần
lấy 3 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15-20 phút có thể dùng được, uống thay trà.
-
Công dụng: Chỉ khái hóa đàm, giáng khí bình suyễn.
Trong y thư cổ "Bản thảo cương mục", lai phục tử có khả năng: hạ khí định suyễn, trị đàm,
tiêu thực, trừ chướng, lợi đại tiểu tiện, chỉ khí thống, hạ lỵ hậu trọng, phát sang chẩn.
Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại, xuyên bối mẫu có tác dụng trừ đàm, giảm ho, bình
suyễn, kháng khuẩn và nâng cao khả năng chống đỡ của cơ thể trong điều kiện thiếu ôxy.
Bài 6
- Cách pha chế: Ngũ vị tử 4 g, nhân sâm 4 g, tô ngạnh 3 g, đường phèn lượng vừa đủ. Tất cả
thái vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15-20 phút có thể dùng được. Chế thêm đường
phèn, uống thay trà trong ngày.

11
- Công dụng: Bổ khí liễm phế, chỉ khái bình suyễn. Dùng cho người già bị hen phế quản lâu
năm, khó thở nhiều, tức ngực, ho khạc đờm trắng dính Những người thể chất béo bệu không
nên dùng.
Nhìn chung, các phương trà dược trên đây đều rất đơn giản, dễ kiếm, dễ pha chế và tiện sử
dụng. Có thể dùng để phối hợp điều trị trong giai đoạn bệnh tái phát hoặc dùng đơn thuần
trong giai đoạn bệnh ổn định. Nên tìm mua các vị thuốc ở những cơ sở đông dược có giấy
phép kinh doanh.
Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn, Sức Khỏe & Đời Sống
Trà dược cho người bị hen phế quản
Tiết trời khô lạnh là điều kiện thuận lợi cho bệnh hen phế quản phát sinh và phát triển. Ngoài
tân dược, người bệnh có thể dùng trà thảo dược có nấm linh chi, nhân sâm, ngũ vị tử kết hợp
với một số vị thuốc khác để chống co thắt phế quản và tăng cường miễn dịch.
Bài 1: Nấm linh chi 6 g, bán hạ chế 5 g, tô diệp 5 g, hậu phác 3 g, bạch linh 9 g, đường phèn
vừa đủ. Các vị tán vụn, cho vào túi vải, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút có thể
dùng được, chế thêm đường phèn, uống thay trà hằng ngày. Công dụng: phù chích ích phế, trừ
đàm bình suyễn, dùng cho bệnh nhân viêm phế quản co thắt, hen phế quản. Trong đó, bán hạ
phối hợp hậu phác có tác dụng trừ đàm, làm thông thoáng đường thở; bạch linh kiện tỳ lợi
thấp, có khả năng tăng cường miễn dịch. Nấm linh chi ngoài tác dụng giảm ho bình suyễn còn
thúc đẩy quá trình tái tạo tế bào niêm mạc phế quản, ức chế phản ứng quá mẫn, bồi bổ cơ thể.
Người bị hen phế quản kèm theo sốt, ho và khạc đàm mủ vàng không nên dùng loại trà này.
Bài 2: Vỏ rễ cây bông 30 g thái vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút có thể
dùng được, chế thêm đường đỏ uống thay trà hằng ngày. Công dụng: bổ trung ích khí, chỉ
khái bình suyễn. Thích hợp cho người viêm phế quản mạn tính và he phế quản. Kết quả
nghiên cứu tên thực nghiệm và lâm sàng cho thấy vị thuốc này có thể giảm ho, tiêu viêm và
chống co thắt phế quản. Phụ nữ có thai không dùng bài này.
Bài 3: ngũ vị tử 4 g, nhân sâm 4 g, tô ngạnh 3 g, đường phèn. Các vị thai vụn, hãm với nước
sôi trong bình kín, sau 15-20 phút có thể dùng được. Công dụng, bổ khí liễm phế, dùng cho
người già bị hen phế quản lâu năm, khó thở nhiều, tức ngực, ho khạc đờm trắng dình. Người
thể béo bệu không nên dùng.
Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn, Khoa Học & Đời Số
Trà dược phòng chống tiểu đường
Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN
Tiểu đường là một trong những căn bệnh đã được y học cổ truyền phương Ðông biết đến
từ lâu với tên gọi là chứng Tiêu khát. Phương thức trị liệu chứng bệnh này cũng rất
phong phú, trong đó có một biện pháp khá độc đáo là lựa chọn, chế biến một số dược liệu để
sử dụng dưới dạng hãm uống như trà, mà người xưa thường gọi là trà dược hay trà thuốc.
Thật khó có thể kể hết các loại trà dược có công dụng phòng chống tiểu đường của y học cổ

12
truyền. Trong bài viết này chúng tôi chỉ xin dẫn một số ví dụ điển hình để độc giả có thể tham
khảo và chọn dùng khi cần thiết.
Bài 1: Nhân sâm 50g, mạch môn 100g, thiên hoa phấn 150g. Ba thứ sấy khô, tán vụn, đựng
trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày lấy 30g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15
phút có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Ích khí sinh tân, làm hết khát và
hạ đường huyết. Loại trà này được lấy từ sách Nhân trai trực chỉ phương luận, trong đó thành
phần quan trọng là nhân sâm với công năng chủ yếu là đại bổ nguyên khí, cố thoát sinh tân.
Nghiên cứu dược lý hiện đại đã chứng minh: Trên bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, nhân sâm có
khả năng làm giảm đường huyết, cải thiện tình trạng suy nhược toàn thân, cải thiện chức năng
tim mạch và dự phòng các biến chứng thứ phát. Các chế phẩm trị liệu tiểu đường của Trung
Quốc như Tiêu khát bình phiến, Tiêu khát giảng đường phiến đều được xây dựng dựa trên
công thức của loại trà dược này.
Bài 2: Ngọc trúc 100g, sa sâm 100g, thạch hộc 100g, mạch môn 100g, ô mai 100g. Tất cả sấy
khô, tán vụn, mỗi ngày lấy 100g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Tư âm nhuận phế, dưỡng vị sinh tân, dùng cho
người bị bệnh tiểu đường thuộc thể Phế vị táo nhiệt lâu ngày khiến cho âm huyết hư tổn, biểu
hiện bằng các triệu chứng ăn nhiều, khát nhiều, tiểu tiện nhiều, thân thể hao gầy, họng khô
miệng khát, có cảm giác sốt về chiều, lòng bàn tay bàn chân nóng Theo y học cổ truyền, cơ
chế bệnh sinh chủ yếu của chứng tiêu khát là do nhân tố táo nhiệt chưng đốt lâu ngày khiến
cho âm dịch bị thương tổn mà phát thành bệnh. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh: Ðối với
thể bệnh Âm hư (âm dịch thiếu) thì việc dùng các vị thuốc dưỡng âm sinh tân như ngọc trúc,
sa sâm, thạch hộc, mạch môn, ô mai đều có tác dụng làm hạ đường huyết. Kết quả nghiên
cứu thực nghiệm cũng cho thấy, ngọc trúc và mạch môn đều có khả năng kích thích các thành
phần có hoạt tính làm giảm đường máu, riêng mạch môn còn có tác dụng thúc đẩy quá trình
hồi phục của các tế bào tuyến tụy.
Bài 3: Vỏ dưa hấu 200g, vỏ bí đao 200g, thiên hoa phấn 120g. Tất cả sấy khô, tán vụn, mỗi
ngày lấy 100g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15-20 phút có thể dùng được, uống
thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt sinh tân, nhuận táo chỉ khát. Theo dược học cổ
truyền, vỏ dưa hấu (tây qua bì) vị ngọt, tính mát, có công dụng giải thử, làm hết khát, lợi niệu,
tiêu thũng, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như viêm thận, tiêu khát, hoàng đản
(vàng da) và giải rượu; Vỏ bí đao (đông qua bì) vị ngọt, tính mát, có công dụng như sách Trấn
nam bản thảo viết: "Chỉ tiêu khát, tiêu đàm, lợi tiểu tiện". Thiên hoa phấn là một vị thuốc tư
âm nhuận táo, cũng đã được nghiên cứu hiện đại chứng minh là có tác dụng làm hạ đường
huyết, hiệu quả bền vững nếu dùng kéo dài. Loại trà dược này đặc biệt thích hợp cho những
người bị bệnh tiểu đường có kèm theo các chứng trạng viêm nhiệt như lở miệng môi, mụn
nhọt, viêm da
Bài 4: Ðịa cốt bì lượng vừa đủ, sấy khô, tán vụn, mỗi ngày lấy 15g hãm với nước sôi trong
bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt lương
huyết, thoái nhiệt, làm giảm đường máu và huyết áp. Theo dược học cổ truyền, địa cốt bì vị
ngọt, tính lạnh, vào ba đường kinh phế, can và thận, được các y thư cổ như Thánh tễ tổng lục,
Y tâm phương. dùng đơn độc hoặc phối hợp với các vị thuốc khác để điều trị chứng tiêu khát.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cũng cho thấy, trên mô hình chuột gây tăng đường huyết thực
nghiệm, địa cốt bì có khả năng làm giảm đường máu, cải thiện tình trạng thương tổn tế bào
beta tuyến tụy. Ngoài ra, vị thuốc này còn có tác dụng làm giảm mỡ máu và hạ huyết áp nên
rất thích hợp cho những người bị bệnh tiểu đường có kèm theo tình trạng rối loạn lipid máu và
cao huyết áp.

13
Bài 5: Mướp đắng (khổ qua) lượng vừa đủ, phơi hoặc sấy khô, mỗi ngày dùng 15g, hãm với
nước sôi trong bình kín, sau 15-20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng:
Thanh thử, điều nhiệt, minh mục, giải độc và làm giảm đường huyết. Theo dược lý học cổ
truyền, khổ qua vị đắng, tính lạnh, thường được dùng để chữa các chứng phiền khát do nhiệt
bệnh hoặc thử bệnh, đau mắt đỏ do can nhiệt, kiết lỵ, viêm da, ho, tắm cho trẻ em trừ rôm
sẩy Kết quả nghiên cứu trên thực nghiệm và lâm sàng hiện đại cho thấy, khổ qua có tác
dụng làm giảm đường huyết bao gồm cả hai loại do nguyên nhân tụy và không do tụy. Cơ chế
tác dụng chủ yếu là do khổ qua đã kích thích tế bào beta tuyến tụy tăng tiết Insulin.
Bài 6: Nhân sâm 30g, hồng hoa 100g. Hai thứ sấy khô, tán vụn, mỗi ngày dùng 13g hãm với
nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công
dụng: Bổ khí cố bản, sinh tân hoạt huyết, dùng cho người bị tiểu đường có biến chứng tim
mạch. Theo dược lý học cổ truyền, hồng hoa vị cay, tính ấm, có công dụng hoạt huyết hóa ứ.
Nghiên cứu hiện đại cho thấy, hồng hoa có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipid máu, cải thiện vi
tuần hoàn, ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu cho nên khi dùng chung với nhân sâm thì phức
hợp này vừa có công dụng hạ đường huyết, vừa có khả năng dự phòng tích cực các biến
chứng tim mạch thường có trên bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, đặc biệt là tình trạng viêm tắc
động tĩnh mạch.
Trà kỷ tử - vị thuốc chữa nhiều bệnh
Tương truyền, vào đời Đường, tể tướng Phòng Huyền Linh vì dụng tâm quá độ giúp Đường
Thái Tông cai quản triều chính nên tinh thần luôn bất an, cơ thể mỏi mệt. Nhờ được thái y cho
dùng canh kỷ tử nấu với mộc nhĩ trắng thường xuyên mà sức khỏe và tinh thần của ông dần
phục hồi.
Kỷ tử là quả chín phơi hay sấy khô của cây khởi tử, tên khoa học là Lycium barbarum L. Thời
cổ đại, nó còn được gọi bằng các tên như thiên tinh (tinh của trời), địa tiên (tiên của đất),
khước lão (đẩy lui tuổi già). Chỉ cần mỗi ngày lấy 15 g kỷ tử hãm với nước sôi trong bình kín,
sau chừng 15-20 phút là ta đã có được một thứ nước màu đỏ đẹp, thơm ngon, vừa có tác dụng
giải khát thay trà lại vừa có công năng bổ thận, ích tinh và dưỡng can, minh mục. Loại trà này
thường được cổ nhân dùng để bồi bổ cơ thể và phòng chống tích cực các chứng bệnh như suy
nhược toàn thân sau bệnh nặng, đầu choáng mắt hoa, giảm thị lực, lưng đau gối mỏi, nhược
dương, di mộng tinh, xuất tinh sớm, muộn con
Tại Trung Quốc, kỷ tử phân bố ở nhiều nơi nhưng loại được trồng ở Ninh Hạ có chất lượng
cao hơn cả. Ở đây, người ta gọi vị thuốc này là "minh mục tử", có nghĩa là thứ quả làm sáng
mắt. Truyền thuyết kể lại rằng, ngày xưa ở Ninh An thuộc tỉnh Ninh Hạ có một cô gái tên là
Cẩu Hồng Quả. Cha cô không may mất sớm, vì quá thương nhớ chồng, mẹ cô khóc nhiều đến
nỗi cả hai con mắt bị bệnh không nhìn thấy gì cả. Để chữa bệnh cho mẹ, Cẩu Hồng Quả đã
không quản gian lao khó nhọc, ngày đêm trèo đèo lội suối lên tận Nam Sơn hái thuốc. Cảm
động trước tấm lòng hiếu thảo của cô, tiên ông Bạch Hồ Tử đã hiện ra và chỉ dẫn Cẩu Hồng
Quả thu hái kỷ tử về làm thuốc cho mẹ cô uống. Quả nhiên, sau một thời gian dùng thuốc,
mắt mẹ cô ngày càng sáng ra và khỏi hẳn. Vì thế, dân trong vùng gọi thảo dược này là "minh
mục tử" và coi đó là thứ "linh đan diệu dược" chuyên chữa bệnh về mắt.

Theo dược học cổ truyền, kỷ tử vị ngọt, tính bình, có công dụng tư bổ can thận, dưỡng huyết,
minh mục và nhuận phế. Nếu can thận âm hư thì tinh và huyết đều thiếu, không thể nuôi
dưỡng mắt đầy đủ được, phát sinh chứng hoa mắt, mắt mờ, thị lực giảm sút Kỷ tử là vị
thuốc vào được cả kinh can và thận, một mặt bổ ích thận tinh, một mặt bổ dưỡng can huyết

14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét