Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

Các dự án đầu tư phát triển khu đô thị mới tại tổng công ty XNK & XD Việt Nam (Vinaconex)

Nhiều chủ đầu tư khác cũng "trăm hoa đua nở": công ty Tu tạo và Phát triển
nhà Hà Nội xây Mễ Trì Hạ, Tổng công ty Xây dựng Hà Nội triển khai Làng
Quốc tế Thăng Long, Vinaconex xây Trung Hòa - Nhân Chính, công ty Việt
Hưng bắt tay vào khu đô thị, thương mại và du lịch Văn Giang Đến nay,
hàng trăm khu mới đã ra đời với đủ loại: như khu đô thị dành cho người có
thu nhập, dành cho người có thu nhập cao, khu đô thị dành cho tầng lớp đại
gia…
Nói về hiệu quả các dự án này, Bộ trưởng Quân cho rằng không nên chỉ
đánh giá bằng cách đếm số mét vuông sàn nhà xây mới đã hoàn thành, mà
quan trọng nhất là các đô thị mới đã góp phần tạo nên một nếp nghĩ mới,
không chỉ của người dân mà của nhiều cơ quan công quyền, lãnh đạo:
"Nhiều người nghĩ rằng, tạo ra những khu đô thị hoành tráng như ngày hôm
nay là do Nhà nước làm”, do sự đóng góp không nhỏ của các tổng công ty
xây dựng.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu 95/125 khu đô thị mới đã hoàn thành, đưa vào sử
dụng, Vụ Kiến trúc - Quy hoạch (Bộ Xây dựng) nhận định: Các dự án hình
thành về sau, có thể tiện nghi hơn về không gian căn hộ, về trang thiết bị nội
ngoại thất so với các dự án đi trước nhưng lại kém hơn về không gian dành
cho cộng đồng, độ thân thiện với môi trường, cảnh quan.
Các tổng công ty đã đóng góp không ít công sức để xây dựng nên những khu
đô thị như vậy giải quyết chỗ ở cho người dân, bố trí một cách hợp lý vừa
tạo ra cảnh quan cuộc sống vừa tiết kiệm diện tích đất xây dựng, phù hợp
với xu thế phát triển của kinh tế thế giới, sự ra đời của các khu đô thị đã giải
quyết cho hơn 1,5 triệu người có nhà ở.
Như khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính của tổng công ty Vinaconex làm chủ
dự án đầu tư. Dự án đã giải quyết được hơn 15.000 chỗ ở và làm việc. Và
cũng không dừng ở đó Tổng công ty còn thực hiện nhiều dự án khu đô thị
mới với quy mô lớn hơn đạt cả lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Công ty đã
xây dựng các khu nhà ở cho người có thu nhập thấp giảm một bớt gánh nặng
cho nhà nước để đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt của người lao động có thu
nhập thấp, đây là một sự đóng góp vô cùng to lớn của công ty đối với nhà
nước.
1.1.2 Sự cần thiết phải đầu tư
Nhu cầu về nhà ở tăng mạnh: theo số liệu của Cục quản lý nhà (bộ xây
dựng), mỗi năm diện tích nhà ở tăng thêm khoảng 30 triệu m
2
, riêng trong
năm 2008 con số này là 50 triệu m
2
. Tuy nhiên, thị trường nhà ở chỉ chú
trọng vào nhóm nhà ở cao cấp, chưa đáp ứng được nhu cầu đang có mức thu
nhập thấp, trong khu nhu cầu nhà ở của người dân ngày càng tăng. Chỉ tính
riêng khối sinh viên, trong khoảng 600 trường đại học và cao đẳng, dự kiến
đến năm 2015. tổng số sinh viên có thể lên đến con số gần 3 triệu. Dự kiến
tổng vốn đầu te để giải quyết nhà ở là 21000 tỷ đồng.về công nhân lao động
trong 194 khu công nghiệp (KCN)được thành lập, và hiện có khoảng 1 triệu
lao động trực tiếo và 1.5 triệu lao động gián tiếp. Trong số đó khoảng 20%
có nhà ở, 2% được trọ ở nhà họ hàng. Trên 30% các hộ gia đình có nhà dưới
36 m2.
Nhu cầu về các nhà ở cao cấp cũng tăng: mức sống xã hội ngày càng tăng thì
việc chi trả cho những căn nhà có giá trị không thành vẫn đề đối với xã hội,
những căn nhà được các dự án khi vừa khởi công đã thu hút đông đảo nhiều
nhà đầu tư sẵn sàng đặt tiền mua, ta biết rằng nhu cầu con người thì ngày
càng tăng, dân số thì ngày càng tăng với tốc độ tăng hơn 1 triệu người/ năm
mà diện tích đất thì không thể nở ra trong khi đó kiến trúc của những ngôi
nhà, những khu tập thể trước thì ngày càng xuống cấp vì thế việc hình thành
và phát triển các khu đô thị mới nhằm đáp ứng về ở, nhu cầu thẩm mỹ, mức
sống của người dân là tất yếu.
Phát triển nhà ở theo kiểu khu đô thị mới có ý nghĩa là đảm bảo sự đồng bộ
về kiến trúc – quy hoạch, về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đảm bảo tính
đồng bộ và hiện đại của khu đô thị mới. Huy động được các nguồn vốn của
phát triển nhà ở như vốn đầu tư cùa nhà nước, vốn tự có của doanh nghiệp,
vốn của cán bộ công nhân viên và nhân dân đóng góp. Đây là mô hình đang
được áp dụng rộng rãi chủ yếu ở các thành phố lớn trong nước và thể hiện
một xu thế vượt trội so với các mô hình trước đây, việc áp hình thức đầu tư
khu đô thị mới này ngoài sự nỗ lực chủ quan từ phía cơ quan quản lý nhà
nước quan trọng hơn là phản ánh đúng nhu cầu khách quan trong vấn đề nhà
ở tại các thành phố lớn.
♦ Trước khi đi vào nghiên cứu chi tiết ta cần hiểu thế nào là
đầu tư phát triển khu đô thị mới hay nói cách khác thế nào thì được gọi là
đầu tư một dự án nhà ở?
“Dự án đầu tư phát triển khu đô thị mới là các dự án đầu tư xây dựng
nhà ở, nhằm tạo ra quỹ nhà ở, các khu vực đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật
và hạ tầng xã hội the quy hoạch chi tiết được các cấp có thẩm quyền phê
duyệt (trong đó bao gồm cả văn phòng cho thuê).” (nghị định
71/2001/NĐ - CP).
Do đó việc đầu tư nhà theo khu đô thị mới sẽ khác với những mô hình trước
đây như:
• Xây dựng để cung cấp cho những đối tượng có nhu cầu,
và góp phần dãn khu dân cư tập trung ở trung tâm thành phố, bố trí một cách
phân bổ hợp lý mật độ dân cư.
• Mọi hoạt động xây dựng đều được tiến hành một cách
quy hoạch tổng thể và chi tiết. Vì các khu đô thị này được thiết kế theo một
kiến trúc khép kín.
• Các khu đô thị bắt buộc phải có cơ sở hạ tầng kỹ thuật
và xã hội đồng bộ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân.
Từ đó ta có thể thấy:
• Hầu hết các dự án tiến hành xây dựng nhà hiện này đều
phải tiến hành theo kiểu xây dựng thành một quy mô khu đô thị mới.
• Có hai loại hình nhà ở phổ biến trong các khu đô thị
mới là chung cư cao tầng và nhà biệt thự. Trong đề án nghiên cứu về tổng
công ty nói về khu đô thị mới bao gồm cả hai loại này nên vấn đề được tôi
đề cập ở cả hai loại.
• Dự án chỉ được coi là hoàn hảo nếu đảm bảo các yếu tố
về hạ tầng kỹ thuật và xã hội do đó nguồn vốn đầu tư không chỉ là chủ đầu
tư.
Những đặc điểm trên được trình bày chi tiết dưới đây:
1.1.2.1 Hướng đầu tư phát triển nhà ở các khu đô thị mới:
• Việc cải tạo nâng cấp diện tích nhà ở hiện có là việc
thường xuyên và cần thiết nhằm đảm bảo chất lượng cho quỹ nhà tuy nhiên
nó không đáp ứng được nhu cầu tăng thêm hàng ngày, hàng giờ về nhà ở do
quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Do vậy việc mở rộng không gian
hành chính ở các thành phố lớn đặc biệt như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí
Minh,… cùng với việc hình thành những khu đô thị mới thu hút sự tập trung
dân cư không những trong nội thành mà còn cả dân nhập cư mới từ ngoại
thành là tất yếu.
• Sự ra đời của các khu đô thị giải quyết được các vấn đề
sau:
o Dãn dân trong khu vực trung tâm, cải thiện điều kiện giao thông, sinh
hoạt, môi trường tại đây.
o Có điều kiện thiết lập đồng bộ về hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật
trong xây dựng phát triển nhà nhằm đạt mục đích phục vụ sinh hoạt vật chất
và tinh thần của cư dân đô thị ngày càng cao.
o Tạo hướng mở, giải quyết nhu cầu nhà ở trong tương lai.
Ta có thể thấy như ở Hà nội đã xác định được cho mình định hướng tổ
chức không gian trong những năm sau: ngoài khu vực hạn chế phát
triển thì không gian sẽ được mở rộng theo hai hướng:
• Phát triển và mở rộng theo phía hữu ngạn sông
Hồng: hướng này bao gồm các quận Tây Hồ, Cầu Giấy, và Thanh Trì tại
đây là những khu vực Nam Quận Hai Bà Trưng, huyện Từ Liêm và Thanh
Trì. Hiện tại đây là những khu vực có tốc độ đô thị hóa mạnh với 2.271,3 ha
xây dựng. Khu đô thị mới mở rộng phía hữu ngạn sông Hồng được phân ra.
o Khu vực Tây Bắc Hồ (một phần nằm trong quận Tây Hồ và một phần
nằm trong phía Nam Thăng Long): định hướng khu đô thị mới hiện nay xây
dựng đồng bộ phát triển theo các dự án.
o Khu vực Tây Nam Hồ Tây (nằm trong khu vực phía Nam đường Minh
Khai) đẩy nhanh đô thị hóa, xây dựng mới khu cây xanh và khu đầu mới kỹ
thuật.
o Khu Thanh Trì – Từ Liêm (thuộc quận Thanh Xuân) phát triển trung
tâm đô thị chuyên ngành, nghỉ dưỡng…
o Khu Từ Liêm: khu đô thị mới hiện đại, công nghiệp và dân cư.
•
 Khu vực phát triển xây dựng
phía Bắc sông Hồng: khu vực đã có khoảng 246,6 ngàn người (cả dân đô
thị và nông thôn dự kiến năm 2010 là 1000 ngàn người với 12.820ha).
Như vậy việc mở rộng không gian đô thị, phát triển những khu đô thị
mới đã giải quyết được nhu cầu về nhà ở của dân cư đô thị trước mắt và
trong lâu dài.

1.1.2.2 Đầu tư khu đô thị mới theo dự án và sự đồng bộ về kiến trúc, quy hoạch, về
kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Khắc phục những tồn tại của những mô hình trước là hầu hết thiếu đồng bộ
trong kiến trúc, quy hoạch, kết cấu hạ tầng và xã hội dẫn đến những bất tiện
trong sinh hoạt và làm việc. Điều đó đòi hỏi mỗi khu đô thị phải có sự phù
hợp môi trường xung quanh nó về kiến trúc, quy mô, ngược lại môi trường
xung quanh hay cụ thể hơn là hạ tầng xã hội và kỹ thuật phải đáp ứng được
những nhu cầu thiết yếu và ngày càng nâng cao của mọi cư dân trong mỗi
căn nhà như đi lại, học hành, ăn uống, vui chơi, giải trí…
Nhận thấy việc phát triển các khu đô thị là một trong những định hướng của
Việt Nam nên tổng công ty Vinaconex đã sáng suốt chuyển hướng chủ yếu
sang việc đầu tư khu đô thị mới. Mặc dù còn nhiều khó khăn vì những dự án
về khu đô thị đòi hỏi quy mô vốn lớn nhưng công ty đã bước đầu vượt qua
những khó khăn và bắt nhịp với sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam.
1.2. GIỚI THIỆU VỀ TCT.
1.2.1 Vài nét về Tổng công ty CP VINACONEX
Quá trình thành lập và phát triển:
Sinh ra trong thời kỳ đổi mới và dưới ánh sáng đường lối đổi mới của đảng,
Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam-
VINACONEX không ngừng phát triển cùng với sự phát triển kỳ diệu của
đất nước. Đến nay, VINACONEX đã trở thành một trong những công ty đa
doanh vững mạnh hàng đầu của ngành xây dựng Việt Nam, đã khẳng định
được năng lực, uy tín, vị thế trong trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh
quyết liệt.
Quá trình hoạt động và trưởng thành gần 20 năm qua của tổng công ty là
quá trình phát triển đi lên của một doanh nghiệp nhà nước từ xuất phát điểm
là một đơn vị rất nhỏ bé không được cấp vốn, không có tài sản, với hoàn
cảnh khách quan và chủ quan đầy khó khăn phức tạp. Trong một thời gian
ngắn từ ngày đầu thành lập, vượt qua những thử thách gay go ác liệt, trụ
vững trước sự thay đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, nhanh
chóng chọn được mô hình tổ chức và phương thức hoạt động, nắm bắt và tận
dụng được thời cơ và điều kiện khách quan, vừa thay đổi và ổn định tổ chức
và phương thức hoạt động, nắm bắt và tận dụng được thời cơ và điều kiện
khách quan và nỗ lực chủ quan, vừa thay đổi và ổn định tổ chức vừa triển
khai hoạt động sản xuất kinh doanh đạt nhiều thành quả ngày càng cao.
Trải qua gần hai thập kỷ phát triển và trưởng thành, Tổng công ty đã không
ngừng mở rộng và phát triển với chức năng chính là: Kinh doanh bất động
sản, xây lắp, tư vấn đầu tư- thiết kế- khảo sát quy hoạch, kinh doanh xuất
nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ ngành xây dựng và các ngành kinh tế
khác, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, xuất khẩu chuyên gia và
lao động ra nước ngoài và các lĩnh vực kinh doanh khác.
Được thành lập ngày 27/09/1988, Tổng công ty Cổ phần xuất nhập khẩu và
xây dựng Việt Nam (VINACONEX), tiền thân là công ty dịch vụ và xây
dựng nước ngoài (có nhiệm vụ quản lý cán bộ, công nhân ngành xây dựng
làm việc ở nước ngoài), và sau đó tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng
Việt Nam được thành lập, đã xác định mục tiêu đa doanh, đa lĩnh vực và đa
sản phẩm là mục tiêu lâu dài. Tổng công ty hiện có trên 70 đơn vị đầu mối
trực thuộc với hơn 40.000 cán bộ, kỹ sư, chuyên gia, công nhân có kiến thức
chuyên sâu và giàu kinh nghiệm hoạt động trên khắp mọi miền của đất nước
cũng như ở nước ngoài.
Để tận dụng được tiềm năng của thị trường vốn nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh và năng lực sản xuất cũng như mở rộng quy mô, VINACONEX
đã mạnh dạn đi đầu trong việc Cổ phần hoá, chuyển đổi hình thức sở hữu.
Ngày 01/12/2006 được coi là 1 dấu ấn quan trọng cuat VINACONEX khi
tổng công ty chuyển sang hoạt động theo mô hình tổng công ty cổ phần. Đây
là 1 bước ngoặt ý nghĩa, đánh dấu 1 sự phát triển mới trong quá trình xây
dựng tổng công ty trở thành một tập đoàn kinh doanhhàng đầu Việt Nam và
khu vực.
Trong suốt quá trình hoạt động của mình, VINACONEX luôn coi trọng và
xác định chữ tín với khác hàng là yếu tố vô cung quan trọng. Nhờ đó, đến
nay, thương hiệu của VINACONEX đã được biết đến rộng rãi trên thương
trường, được khách hàng trong và ngoài nước tôn trọng và đặt niềm tin khi
thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh.
1.2.2 Cơ cấu tổ chức của công ty:
1.2.2.1 Mô hình tổ chức của toàn tổng công ty:

Hình 1: Mô hình hoạt động của tổng công ty

Ngày 5/10/2006 Bộ trưởng bộ xây dựng đã có quyết định số 1384/QĐ-
BXD phê duyệt phương án cổ phần hoá Tổng công ty VINACONEX . Theo
phương án được duyệt, VINACONEX được phép giữ nguyên phần vốn nhà
nước hiện có, phát hành cổ phiếu để thu hút vốn. Tổng công ty cổ phần xuất
nhập khẩu xây dựng Việt Nam VINACONEX là Công ty mẹ của tổ hợp
công ty Mẹ- Công ty Con, hoạt động theo luật doanh nghiệp 2005, với vốn
điều lệ là 1.500 tỷ đồng trong năm 2006 và đã tăng lên 2.000 và 3.000 tỷ vào
tháng 7 năm 2008. Trong đó, tỷ trọng cổ phần nhà nước chiếm 63.35%, các
cổ đông khác chiếm 36.65% vốn điều lệ. Mô hình hình cổ phần hoá đã thu
hút có hiệu quả nguồn vốn xã hội, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
đồng thời phát huy cao độ trí tuệ xã hội, thực hiện có hiệu quả chủ trương xã
hội hoá trong quản lý.
Theo chủ trương đổi mới của đảng và chính phủ, Tổng công ty
VINACONEX cũng đã tiến hành cổ phần hoá các đơn vị thành viên, ngoài
ra, Tổng công ty còn thành lập mới nhiều Công ty cổ phần và Công ty
TNHH.
Sau cổ phần hoá, Tổng công ty đã hoạt động dưới hình thức một Tổng công
ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp và theo mô hình Công ty Mẹ-
Công ty Con, trong đó:
- Tổng công ty cổ phần VINACONEX đóng vai trò là công ty mẹ vừa thực
hiện chức năng kinh doanh độc lập vừa thực hiện chức năng đầu tư vốn cho
các công ty con.
- Các Công ty do Tổng công ty cổ phần VINACONEX nắm cổ phần chi
phối sẽ đóng vai trò là các công ty con chịu sự chi phối của các công ty mẹ
trong một số lĩnh vực nhất định và được quyền chủ động trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
- Các công ty do Tổng công ty cổ phần VINACONEX nắm cổ phần không
chi phối sẽ đóng vai trò là các công ty liên kết, quan hệ với công ty mẹ bình
đẳng và cùng có lợi. Công ty liên kết tự chủ và chịu trách nhiệm trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Để mô hình Công ty Mẹ- Công ty Con được phát triển bền vững, bên cạnh
việc xác định tôn chỉ hoạt động xây dựng các mục tiêu chiến lược, xây dựng
văn hoá doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với đặc
điểm của tổng công ty thì việc xác định cơ cấu tổ chức tối ưu để nâng cao
tính tương thích trên thị trường, xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp
phù hợp bao gồm việc chuyển đổi hình thức hoạt động với một cơ cấu tổ
chức hợp lý phù hợp với đặc điểm của Tổng công ty.
1.2.2.2 Chức năng - nhiệm vụ của phòng ban đầu tư
• Chức năng:
o Tham mưu, giúp việc cho hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc tìm kiếm
cơ hội đầu tư, xác định rõ mục tiêu đầu tư, tổ chức và tập trung nhân lực hợp
lý nhằm đạt được mục tiêu đầu tư các dự án của tổng công ty.
o Tham mưu, giúp việc cho hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc trong việc
hoạch định chiến lược, kế hoạch hàng năm trong công tác đầu tư nhằm từng
bước đưa mọi hoạt động đầu tư của tổng công ty hội nhập kinh tế trong khu
vực và trên thế giới.
o Tham gia trong việc định hướng hoạt động cho các công ty con và công ty
thành viên liên kết (nếu có).
o Các chức năng khác do lãnh đạo tổng công ty giao.
• Nhiệm vụ:
o Tổ chức thực hiện thủ tục pháp lý đối với các dự án đầu tư của tổng công
ty và công ty con, công ty thành viên liên kết (nếu có).
o Quản lý quá trình chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành khai thác
sử dụng các dự án đầu tư của tổng công ty và các công ty con, công ty thành
viên liên kết (nếu có).
o Lập báo cáo tình hình thực hiện các dự án đầu tư.
o Theo dõi, tổng hợp và đánh giá tình hình khai thác, sử dụng dự án đầu tư.
o Tìm hiểu thị trường, nghiên cứu các quy định của pháp luật để tìm kiếm cơ
hội đầu tư.
o Các nhiệm vụ khác do lãnh đạo tổng công ty giao.
1.2.2.3 Hoạt động kinh doanh của công ty:
Các hoạt động kinh doanh chính:
Từ một công ty chỉ hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động và chuyên
gia nước ngoài, VINACONEX hiện là một tổng công ty lớn với các lĩnh vực
kinh doanh chủ yếu là lĩnh vực đầu tư và kinh doanh bất động sản, xây lắp
công trình, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, tư vấn thiết kế, xuất
khẩu lao động, xuất nhập khẩu, đầu tư tài chính, kinh doanh thương mại, du
lịch và khách sạn, giáo dục đào tạo và nhiều lĩnh vực khác.
Phương hướng cơ bản và lâu dài của VINACONEX trong hoạt động sản
xuất kinh doanh là thực hiện đa doanh, đa dạng hoá ngành nghề, đa sở hữu
trên cơ sở trên cơ sở các lĩnh vực sản xuất, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp
trong đó đầu tư và kinh doanh bất động sản tiếp tục là thế mạnh, là lĩnh vực
then chốt tạo đà cho VINACONEX đầu tư mạnh vào các dự án công nghiệp
khác, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. Riêng trong lĩnh vực tài
chính, VINACONEX sẽ thành lập các mô hình tài chính phù hợp nhằm thu
hút, quản lý các nguồn vốn phục vụ cho phát triển và tăng cường mở rộng
đầu tư vào thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán.
Với các sản phẩm được đa dạng hoá dựa trên một cơ cấu hợp lý, hoạt động
đầu tư được đẩy mạnh, giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá và xuất khẩu lao động được nâng cao cùng quá trình cổ phần hoá
vững mạnh, VINACONEX đang phấn đấu trở thành tập đoàn kinh tế mạnh
của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á
Mô hình các lĩnh vực hoạt động chính của VINACONEX:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét