Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Doanh nghiệp nhà nước địa phương ở Thành phố Hà Nội: Thực trạng và giải pháp

Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ ĐẶC ĐIỂM
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ĐỊA PHƯƠNG Ở HÀ NỘI
1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước: Hiện nay tiêu thức cụ thể để phân
loại và nhận biết về doanh nghiệp nhà nước ở nhiều nước trên thế giới còn rất
khác nhau:
Liên Hợp quốc quan niệm: doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp
do Nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần vốn tại doanh nghiệp và Nhà nước
có quyền kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình đưa ra những quyết
sách của doanh nghiệp.
Ngân hàng thế giới: doanh nghiệp nhà nước như là một thực thể kinh tế
thuộc sở hữu hay thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước mà phần lớn thu nhập
của họ được tạo ra thông qua việc bán hàng hoá và dịch vụ.
Ở Pháp, doanh nghiệp nhà nước được xác định là những doanh nghiệp thoả
mãn đủ 3 điều kiện: Thứ nhất: tính công hữu của quyền sở hữu doanh nghiệp,
nhờ đó có thể xác định được địa vị lãnh đạo của Nhà nước đối với doanh
nghiệp; thứ hai: có địa vị pháp nhân độc lập, nghĩa là nó có địa vị pháp lý như
các doanh nghiệp pháp nhân khác trong cùng hoạt động kinh tế; thứ ba, là tổ
chức kinh tế có hạch toán lỗ lãi chứ không phải là đơn vị hành chính sự
nghiệp của Chính phủ.
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
5
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Các nước khác như Phần Lan, Thuỵ Điển, Brazin, Tây Ban Nha, Australia
đều xác định các doanh nghiệp trong đó Nhà nước chiếm trên 50% vốn là
doanh nghiệp nhà nước [33, tr8-9]
Nhưng có một số nước xác định tỷ lệ này thấp hơn, ví dụ Hàn Quốc : 10%;
Italia: 25%; Malaysia: 20%; Ấn Độ xác định: tất cả các doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá trong các ngành công nông nghiệp và dịch vụ tính giá thành được do
Chính phủ là người chủ sở hữu chủ yếu đều thuộc doanh nghiệp nhà nước,
hay còn gọi là xí nghiệp công doanh. Chính phủ bao gồm cả Chính phủ Trung
ương và chính quyền địa phương [33, tr9].
Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy những tiêu chí tiêu biểu trong các định
nghĩa về doanh nghiệp nhà nước do các nước, các tổ chức đưa ra, đó là:
- Chính phủ là cổ đông chính trong doanh nghiệp hoặc có thể kiểm soát
những chính sách chung của doanh nghiệp và bổ nhiệm hoặc bãi chức
ban quản lý doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hoặc bán hàng hoá và dịch vụ cho
công chúng, hoặc cho các doanh nghiệp khác.
- Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
Như vậy, có thể thấy các tiêu chí cụ thể để nhận biết, phân biệt doanh
nghiệp nhà nước trên thế giới còn khác nhau, ví dụ như theo tiêu chí về quyền
sở hữu của Nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước.
Ở Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhà nước được đề cập từ Đại hội
giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994), nó được hoàn thiện và sử dụng thống nhất
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
6
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
từ khi Luật Doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua, ban hành ngày
20-4-1995.
Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước được quy định trong Điều 1 - Luật
Doanh nghiệp nhà nước như sau:
- “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công
ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
- Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ
dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong
phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý.
- Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính
trên lãnh thổ Việt Nam.” [42,5-6]
Tóm lại, những quan niệm trên ít nhiều có sự khác nhau, tuỳ theo sự nhấn
mạnh một số tiêu chí nhất định, nước này thì xem đó là doanh nghiệp nhà
nước, nước khác lại xem đó là doanh nghiệp tư nhân. Thậm chí ngay trong
một nước cũng có những quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước,
dẫn đến có sự đánh giá khác nhau về vị trí, vai trò, hiệu quả của doanh
nghiệp nhà nước. Vì vậy, cần xác định rõ tiêu chí về doanh nghiệp nhà nước
để có sự đánh giá thống nhất cũng như có cơ chế quản lý phù hợp với điều kiện
nước ta.
Gắn với thực tiễn Việt Nam, chúng ta thấy xác định là doanh nghiệp nhà
nước cần hội đủ một số tiêu chí sau: mức độ sở hữu của Nhà nước về vốn tại
doanh nghiệp, khả năng thực hiện quyền sở hữu Nhà nước đối với doanh
nghiệp, tính chất, hoạt động và địa vị pháp lý của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
7
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Về mức độ sở hữu của Nhà nước về vốn tại doanh nghiệp không nhất thiết
phải là 1 tỷ lệ cố định là lớn hơn 50% tổng số vốn của doanh nghiệp, mà là
một tỷ lệ có thể nhỏ hơn 50% tuỳ từng trường hợp, từng thời điểm cụ thể, đủ
để Nhà nước nắm giữ tỷ lệ vốn cổ phần chi phối doanh nghiệp đó, bảo đảm
cho Nhà nước có vai trò quyết định khi thông qua các quyết sách quan trọng
của doanh nghiệp.
Còn trong các doanh nghiệp mà cổ đông tư nhân nắm nhiều cổ phần có
quyền tham gia quản lý doanh nghiệp đến mức Nhà nước không còn khả năng
kiểm soát các quyết định quan trọng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó
không còn là doanh nghiệp nhà nước.
Về tính chất hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là sản xuất - kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ có hạch toán lỗ lãi. Điều này phân biệt doanh nghiệp
nhà nước với cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước.
Về địa vị pháp lý, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân độc lập,
điều này khẳng định quyền và nghĩa vụ dân sự mà doanh nghiệp tham gia các
quan hệ pháp lý, khả năng tự chủ về vốn, có tên giao dịch, con dấu riêng và
nơi đặt trụ sở chính.
Do đó, để có thể kết luận một doanh nghiệp có phải là doanh nghiệp nhà
nước hay không phải dựa vào những tiêu chí cơ bản, chứ không thể chỉ dựa
vào một trong các tiêu chí đó.
* Phân loại doanh nghiệp nhà nước: có nhiều cách phân loại doanh nghiệp
nhà nước khác nhau.
- Xét theo cơ cấu sở hữu vốn nhà nước.
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
8
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
+ Loại doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà
nước.
+ Loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà
nước giữ trên 50% vốn.
+ Loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần
sở hữu của Nhà nước ít nhất gấp hai lần cổ phần của các cổ đông lớn
khác trong doanh nghiệp.
+ Loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà
nước sở hữu cổ phần đặc biệt để nắm giữ quyền quyết định một số vấn
đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận được ghi trong điều lệ
doanh nghiệp.
- Nếu căn cứ vào quy mô dựa trên 3 tiêu thức chính là vốn, lao động và
sản lượng thì có thể phân thành 3 nhóm:
+ Doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn: vốn nhà nước trên 10 tỷ,
doanh thu trên 100 tỷ, lao động từ 300 người lao động trở lên.
+ Doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa: vốn nhà nước từ 5 đến 10 tỷ,
doanh thu từ 50 đến 10 tỷ, lao động từ 200 người trở lên.
+ Doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ: vốn dưới 5 tỷ, doanh thu dưới
50 tỷ, lao động dưới 200 người.
- Theo mục tiêu hoạt động có 2 loại:
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp nhà
nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
9
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
của doanh nghiệp nhà nước được đánh giá theo lợi nhuận đạt được và
mức độ đóng góp vào ngân sách nhà nước.
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp hoạt
động sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ công cộng theo các chính
sách của Nhà nước, hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh.
- Theo cấp chủ quản
+ Doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý.
+ Doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý.
Đây là cách phân chia cần thiết để Nhà nước có thể tiến hành quản lý
doanh nghiệp theo các mục tiêu khác nhau một cách có hiệu quả.
* Khái niệm doanh nghiệp nhà nước Trung ương, doanh nghiệp nhà nước
địa phương.
Từ khái niệm chung về doanh nghiệp nhà nước có thể hiểu doanh nghiệp
nhà nước Trung ương như sau:
- Doanh nghiệp nhà nước Trung ương là tổ chức kinh tế do cơ quan Nhà
nước Trung ương có thẩm quyền đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích trong các ngành và lĩnh vực
then chốt, huyết mạch của nền kinh tế, nhằm đảm bảo cho sự ổn định kinh tế
vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước Trung ương tự chịu trách nhiệm về toàn bộ
hoạt động của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn của doanh nghiệp; Doanh
nghiệp nhà nước Trung ương có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính
trên lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
10
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Chúng ta có thể phân tích khái niệm doanh nghiệp nhà nước Trung ương
ở một số khía cạnh cơ bản sau:
+ Việc thành lập và tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước Trung ương
là do Thủ tướng, các cơ quan nhà nước Trung ương có thẩm quyền quyết
định. Ví dụ: Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, các doanh
nghiệp này sẽ trực tiếp đại diện sở hữu nguồn vốn thông qua Hội đồng quản
trị, Tổng giám đốc Các bộ quản lý ngành và Bộ Tài chính quản lý doanh
nghiệp những mặt: sử dụng bảo toàn và phát triển vốn, lĩnh vực đầu tư, nộp
thuế, bảo hiểm cho người lao động
+ Doanh nghiệp nhà nước Trung ương hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích trong những ngành, những lĩnh vực then chốt huyết mạch của
nền kinh tế như năng lượng, hoá chất, mạng thông tin quốc gia và quốc tế,
khai thác khoáng sản quan trọng, in bạc, điều hành bay, sản xuất, sửa chữa vũ
khí, trang thiết bị chuyên dùng cho quốc phòng an ninh nhằm đảm bảo sự
ổn định và phát triển nền kinh tế vĩ mô.
Từ sự phân tích khái niệm chung về doanh nghiệp nhà nước Trung ương
có thể hiểu khái niệm doanh nghiệp nhà nước địa phương như sau:
+ Doanh nghiệp nhà nước địa phương là tổ chức kinh tế do Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan Nhà nước địa phương có
thẩm quyền đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý. Ví dụ: Sở Tài chính Vật
giá, Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Thương
mại, Sở Xây dựng, Sở Lao động Thương binh Xã hội, Uỷ ban nhân dân
Thành phố, Uỷ ban nhân dân Huyện
+ Doanh nghiệp nhà nước địa phương đa số hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động công ích trong những ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu phục vụ cho
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
11
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
nhu cầu của nhân dân địa phương, và các địa phương giáp ranh. Ví dụ: công
nghiệp dệt, da giầy, cấp thoát nước, vận tải công cộng nhằm giải quyết
những yêu cầu cụ thể của địa phương.
* Mối quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước Trung ương và doanh nghiệp
nhà nước địa phương
Giữa doanh nghiệp nhà nước Trung ương và doanh nghiệp nhà nước địa
phương có mối quan hệ tác động qua lại cùng bổ sung cho nhau phát triển.
Đặc biệt trên cùng một địa bàn, mối quan hệ giữa hai khu vực này ngày càng
khăng khít hơn. Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước Trung ương đều có
quy mô lớn, có lợi thế trong việc áp dụng công nghệ hiện đại, có ưu thế về
khả năng cạnh tranh để tham gia vào thị trường thế giới. Do đó, doanh nghiệp
nhà nước Trung ương có thể trợ giúp công nghệ, vốn, thị trường cho doanh
nghiệp nhà nước địa phương hoặc các doanh nghiệp nhà nước của địa phương
phát triển theo kiểu “công ty vệ tinh”của các doanh nghiệp nhà nước Trung
ương. Từ đó, có thể nghiên cứu để xây dựng nhà máy chế biến, và chịu trách
nhiệm thị trường tiêu thụ, còn các doanh nghiệp nhà nước địa phương đóng
vai trò là nguồn cung cấp nguyên liệu, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp
Nhưng ở đây chúng ta thấy doanh nghiệp nhà nước địa phương, đặc biệt
là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công ích có một vai
trò không nhỏ trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà
nước Trung ương hoạt động tốt.
Ví dụ như việc cung cấp nước sạch, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
12
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế đã trở thành hiện
thực khách quan ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới với các thể chế
chính trị khác nhau. ở mỗi nước, vai trò vị trí của doanh nghiệp nhà nước có
những mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào mục tiêu chiến lược của Nhà nước
trong những giai đoạn nhất định.
Thực tiễn cho thấy, đã tồn tại quan niệm trái ngược nhau về vai trò của
doanh nghiệp nhà nước ở nhiều nước: Một là, quá đề cao doanh nghiệp nhà
nước, xem nó như là một lực lượng chủ lực, quyết định đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó dẫn tới việc quốc hữu hoá, thành lập nhiều
doanh nghiệp nhà nước vào những năm 1950 - 1960. Hai là, xem nhẹ vai trò
doanh nghiệp nhà nước, đề cao vai trò của kinh tế tư nhân dẫn tới đẩy nhanh
quá trình tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ
XX cho đến nay. Thực tế đã chứng minh cả hai quan niệm này đều không
đúng. Khi nhấn mạnh quá mức vai trò của doanh nghiệp nhà nước dẫn đến
hình thành nền kinh tế chỉ huy sẽ gây cản trở, làm hạn chế khả năng sản xuất
của khu vực kinh tế tư nhân, kết quả là làm cho nền kinh tế bị lâm vào cảnh
trì trệ, đình đốn như mô hình của các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây.
Ngược lại, nếu tư nhân hoá tràn lan tới mức Nhà nước chỉ có thể điều tiết nền
kinh tế bằng các chính sách, bằng pháp luật, sẽ hạn chế khả năng điều tiết của
Nhà nước, tăng tính tự phát của thị trường, gây hậu quả xấu về kinh tế và xã
hội.
Hiện nay, có thể nói không một quốc gia nào loại bỏ hoàn toàn doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Sự cần thiết tồn tại doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế thị trường là doanh nghiệp nhà nước tạo cho Chính
phủ một sức mạnh để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội to lớn trong những
giai đoạn đặc biệt như giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khủng
hoảng kinh tế hoặc để sản xuất những hàng hoá và dịch vụ được tiêu dùng
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
13
Nguyễn Thị nh TuyÁ ết Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
mang tính chất xã hội như đường giao thông, phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở,
kiểm soát việc sử dụng những tài nguyên quý hiếm của quốc gia và những
ngành liên quan đến an ninh quốc phòng.
Ở nước ta, sự ra đời và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cũng trải qua
nhiều giai đoạn gắn bó với nhiệm vụ chính trị và mô hình kinh tế được áp
dụng. Trước Đại hội VI, chúng ta thực hiện mô hình kinh tế cũ, tương ứng với
thời kỳ này doanh nghiệp nhà nước được gắn với vai trò thống trị trong tất cả
các lĩnh vực bằng tỷ trọng áp đảo. Đồng thời việc quản lý các doanh nghiệp
nhà nước lại thiên về mệnh lệnh hành chính, vừa quan liêu, lại đi sâu vào can
thiệp trực tiếp vào công việc sản xuất của các đơn vị kinh tế. Điều này dẫn tới
những sai lầm của mô hình kinh tế cũ, là cơ cấu nền kinh tế bất hợp lý, làm
mất đi tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp.
Đến Đại hội VI, Đại hội VII, chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới và vai
trò của doanh nghiệp nhà nước được xác định: doanh nghiệp nhà nước giữ vai
trò chủ đạo bằng năng suất, chất lượng, uy tín kinh doanh, doanh nghiệp nhà
nước phải giữ vị trí then chốt của nền kinh tế. Như vậy, nội dung “vai trò chủ
đạo” của doanh nghiệp nhà nước chưa được thể hiện rõ ràng.
Chỉ đến Đại hội VIII nội dung “vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà
nước mới được khẳng định rõ ràng, phù hợp nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Đại hội VIII đã khẳng định “chủ động
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở
thành nền tảng, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết
những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng
điều tiết và quản lý kinh tế vĩ mô”. Giờ đây vai trò chủ đạo được thực hiện
Doanh nghiệp nh nà ước địa phương ở H Nà ội: Thực trạng v già ải pháp
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét