5
nhau thì theo quan điểm này chúng cùng có hiệu quả. Quan điểm này
phản ánh tư tưởng trọng thương.
Quan niệm thứ hai cho rằng: “ Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ
lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”.
Quan niệm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết
quả đạt được và chi phí tiêu hao. Tuy nhiên xét trên quan điểm Mác-
Lênin thì sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ tác
động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ. Hơn nữa
kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên kết
mật thiết với yếu tố sẵn có, chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên
quá trình kinh doanh và làm kết quả kinh doanh thay đổi. Theo quan
điểm này tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét đến phần bổ sung và
chi phí bổ sung, nó mới chỉ dừng lại ở mức độ xem xét sự bù đắp chi
phí bỏ ra cho quá trình kinh doanh tăng thêm.
Quan niệm thứ ba cho rằng: Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì
hiệu quả kinh doanh là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để
đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả
có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay
thấp là tuỳ thuộc và trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong
doanh nghiệp. Đây là quan niệm khá phổ biến được rất nhiều người
thừa nhận. Quan niệm này gắn kết quả với chi phí, coi hiệu quả kinh
doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên quan niệm
này chưa biểu hiện tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chưa
phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
5
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
5
6
Quan niệm thứ tư cho rằng: Nếu đứng trên góc độ từng yếu tố
riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử
dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất. Quan điểm này ra đời và
phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất cơ giới hoá,
nó phân quá trình kinh doanh thành những yếu tố, những công đoạn và
hiệu quả được xem xét cho từng yếu tố. Tuy nhiên hiệu quả của từng
yếu tố đạt được không có nghĩa là hiệu quả kinh doanh cũng đạt được,
nó chỉ đạt được khi có sự thống nhất, có tính hệ thống và đồng bộ giữa
các bộ phận, các yếu tố.
Trong xã hội chủ nghĩa phạm trù hiệu quả kinh doanh vẫn tồn tại
vì sản phẩm của xã hội chủ nghĩa sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Tuy
nhiên mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa khác với nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, trong xã hội chủ nghĩa, sản xuất nhằm đáp ứng
nhu cầu của mọi người trong xã hội một cách tốt nhất. Chính vì đứng
trên lập trường tư tưởng đó mà quan niệm về hiệu quả kinh donah trong
xã hội chủ nghĩa cho rằng: “ Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn
yêu cầu của các quy luật kinh tế cơ bản của xã hội chủ nghĩa, tiêu dùng
với tư cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các
doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh”. Khó khăn ở
đây là đưa ra được phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng
đó. Nguyên nhân là do đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói
riêng rất đa dạng và phong phú, có nhiều hình thức phản ánh trong các
chỉ tiêu mức độ nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống.
Qua các quan niệm trên có thể thấy: “ Mặc dù chưa có sự hoàn
toàn thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Nhưng ở các
6
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
6
7
quan niệm khác nhau đó lại có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm
trù hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh
doanh. Đó là do các quan điểm đã phản ánh đúng bản chất của hiệu quả
kinh doanh-phản ánh mặt chất lượng của hiệu quả kinh doanh, phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất để đạt được mục tiêu cuối
cùng của hoạt động kinh doanh-mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
“ Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ
sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt
kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất”.
Vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc thực hiện
hàng loạt các biện pháp có hệ thống, có tổ chức, có tình đồng bộ và có
tính liên tục tại doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu cuối cùng đó là hiệu
quả cao.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm rất nhiều
khâu với các mối liên hệ, tác động qua lại mang tính chất quyết định và
hỗ trợ cùng nhau thực hiện mục tiêu tổng thể của hoạt động kinh doanh.
Nâng cao hoạt động của tất cả các khâu trong kinh doanh là nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác tổ chức điều hành hoạt động của bất cứ một
doanh nghiệp nào.
Xét theo nghĩa rộng hơn thì hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng
suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có
quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả. Chính vì khan hiếm nguồn lực
và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và
tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh
7
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
7
8
nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực,
hiệu năng của yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Bên cạnh đó cần hiểu phạm trù hiệu quả một cách toàn diện trên
cả hai mặt định lượng và định tính. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh
doanh biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ
ra. Nếu xét về tổng lượng thì kinh doanh chỉ đạt hiệu quả khi kết quả
lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn hiệu quả kinh doanh càng cao
và ngược lại.
Về mặt định tính, hiệu quả kinh doanh cao phản ánh sự cố gắng,
lỗ lực, trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất
kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là một phạm trù trừu
tượng, nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các
chỉ tiêu, con số để tính toán so sánh; nếu là phạm trù trừu tượng phải được định
tính thành các mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì mục tiêu kinh doanh cơ
bản của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận là phần giá trị rôi ra
mà doanh nghiệp thu được ngoài các chi phí cần thiết ( chi phí kinh
doanh). Nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc cực đại hoá giá trị
này thông qua hàng loạt các biện pháp cải tiến sản xuất, tiết kiệm trong
thu mua, thúc đẩy tiêu thụ và phát huy tất cả các nguồn lực của doanh
nghiệp.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh rất phức tạp vì bản thân kết
quả kinh doanh và chi phí kinh doanh nhiều khi không được phản ánh
chính xác. Nguyên do là có những chi phí và kết quả không phản ánh
được bằng các đơn vị đo lường thông thường ( như uy tín, phi phí vô
8
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
8
9
hình ). Có lẽ vì vậy mà một đặc điểm quan trọng nhất của hiệu quả
kinh doanh là khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính xác. Hiệu quả
kinh doanh được xác định từ kết quả thu được và chi phí bỏ ra, trong
khi đó kết quả và chi phí lại rất khó đo lường vì vậy đo lường đánh giá
hiệu quả kinh doanh là rất khó khăn.
Về kết quả kinh doanh: Hầu như rất ít các doanh nghiệp xác định
được chính xác kết quả kinh doanh ở một thời điểm cụ thể. Nguyên
nhân là do quá trình kinh doanh không trùng khớp với nhau, vả lại tại
các doanh nghiệp sản xuất xác định sản phẩm đã tiêu thụ trong khâu
hàng gửi bán tại các điểm tiêu thụ, đại lý hay đơn vị bạn là rất khó
khăn. Bên cạnh đó việc ảnh hưởng của thước đo giá trị cũng là nguyên
nhân gây lên khó khăn trong việc đánh giá chính xác hiệu quả kinh
doanh ( thay đổi của giá trị đồng tiền trên thị trường theo địa điểm và
thời gian).
Việc xác định chi phí kinh doanh cũng không dễ dàng. Về nguyên
tắc, chi phí kinh doanh của doanh nghiệp được xác định từ chi phí hữu
hình và chi phí vô hình. Xác định chi phí vô hình thường mang tính ước
đoán, chúng ta không thể xác định chính xác chi phí vô hình trong một
thương vụ kinh doanh. Chi phí vô hình là một cản trở lớn cho các
không chỉ doanh nghiệp mà còn cả nền kinh tế quốc dân trong xác định
được chính xác chi phí bỏ ra.
Cũng chính vì việc xác định kết quả kinh doanh và chi phí kinh
doanh khó khăn mà dẫn tới khó xác định hiệu quả kinh doanh. Hơn
nữa, điều này cũng dẫn đén tình trạng hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và
hiệu quả kinh doanh dài hạn không phù hợp với nhau, đôi khi là mâu
9
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
9
10
thuẫn. Chẳng hạn doanh nghiệp chú trọng vào các mục tiêu trước mắt
mà bỏ qua các đoạn thị trường, bạn hàng truyền thống, về ngắn hạn có
thể đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho các doanh nghiệp. Nhưng về
dài hạn có thể đem lại hiệu quả xấu.
1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Phân loại hiệu quả kinh doanh là một việc làm hết sức thiết thực, nó là
phương cách để các doanh nghiệp xem xét đánh giá những kết quả mà mình đạt
được và là cơ sở để thành lập các chính sách, chiến lược, kế hoạch hoạt động của
doanh nghiệp. Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả được biểu hiện ở nhiều
dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng và ý nghĩa cụ thể của nó.
Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng
thiết thực trong việc điều hành tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp.
1.2.1. Hiệu quả cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động kinh doanh
của từng doanh nghiệp, với biểu hiện trực tiếp là lợi nhuận kinh doanh
và chất lượng thực hiện những yêu cầu xã hội đặt ra cho nó. Hiệu quả
kinh tế quốc dân được tính cho toàn bộ nền kinh tế, về cơ bản nó là sản
phẩm thặng dư, thu nhập quốc dân hay tổng sản phẩm xã hội mà đất
nước thu được trong mỗi thời kỳ so với lượng vốn sản xuất, lao động
xã hội và tài nguyên đã hao phí.
Trong việc thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong sản xuất
kinh doanh của từng doanh nghiệp, mà còn cần phải đạt được hiệu quả
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; mức hiệu quả kinh tế quốc dân lại
phụ thuộc vào mức hiệu quả cá biệt. Nghĩa là phụ thuộc vào sự cố gắng
của mỗi người lao động và mỗi doanh nghiệp. Đồng thời xã hội thông
10
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
10
11
qua hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước cũng có tác động trực tiếp
đến hiệu quả cá biệt. Một cơ chế quản lý đúng tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nâng cao hiệu quả cá biệt, ngược lại một chính sách lạc hậu,
sai lầm lại trở thành lực cản kìm hãm nâng cao hiệu quả cá biệt.
1.2.2. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Hiệu quả chi phí tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả
thu được và chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động kinh doanh.
Hiệu quả chi phí bộ phận lại thể hiện mối tương quan giữa kết
quả thu được với lượng chi phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện
nhiệm vụ ấy ( lao động, thiết bị nguyên vật liệu )
Việc tính toán chỉ tiêu chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung
của doanh nghiệp. Việc tính toán chỉ tiêu chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của
những yếu tố nội bộ hoạt động kinh doanh đến hiệu quả kinh tế chung. Về nguyên
tắc, hiệu quả chi phí tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả của chi phí bộ phận.
1.2.3. Hiêu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Trong hoạt động kinh doanh, việc xác định và phân tích hiệu quả
nhằm hai mục đích:
Một là, phân tích đánh giá trình độ quản lý và sử dụng các loại chi
phí trong kinh doanh
Hai là, phân tích luận chứng về kinh tế- xã hội các phương án
khác nhau, trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để
Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án bằng các
xác định mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra, khi
thực hiện mục tiêu.
11
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
11
12
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu
hiệu quả tuyệt đối, hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi
phí hoặc kết quả của các phương án với nhau.
Cách phân loại này được sử dụng khá phổ biến và rộng rãi trong
việc thực hiện thẩm định các dự án mới đầu tư, với các doanh nghiệp đi
vào hoạt động thì chỉ tiêu hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so
sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối trong hai mốc thời gian khác nhau.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa kinh doanh đối với
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình
với thị trường nhất là trong một nền kinh tế mở. Do vậy mà để thấy
được vai trò của nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp
trong nền kinh tế trước hết chúng ta xem xét cơ chế thị trường và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi, điều tiết và lưu thông
hàng hoá. Nó tồn tại một cách khách quan và gắn liền với lịch sử phát
trỉên của nền sản xuất hàng hoá. Thông qua thị trường các doanh
nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ
thống giá cả trên thị trường. Trên thị trường luôn tồn tại các quy luật
vận động của hàng hoá, giá cả và tiền tệ như các quy luật giá trị, quy
luật giá cả, quy luật lưu thông, quy luật cạnh tranh Các quy luật này
tạo thành một hệ thống thống nhất và hệ thống này chính là linh hồn
của cơ chế thị trường. Dưới hình thức các quan hệ mua bán hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường cơ chế thị trường tác động đến việc điều tiết sản
xuất, tiêu dùng, đầu tư và từ đó làm thay đổi cơ cấu sản phẩm cơ cấu
12
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
12
13
ngành Nói cách khác, cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối,
phân phối lại các nguồn lực của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu xã
hội một cách tối ưu.
Sự vận động đa dạng, linh hoạt của cơ chế thị trường dẫn đến sự
biểu hiện gần đúng nhu cầu và sự đáp ứng nhu cầu đó của thị trường,
hay thị trường là nơi phát ra các tín hiệu về cung, cầu, giá cả điều tiết
các thành viên của nó hoạt động theo các quy luật vốn có. Tuy nhiên
điều này không phải là tuyệt đối, thị trường cũng biểu hiện rất nhiều
các khuyết tật mà nó không tự khắc phục được như: cạnh tranh không
hoàn hảo, phá huỷ môi trường, làm ăn phi pháp, lừa lọc Để tránh
những tác động tiêu cực này của thị trường, thì doanh nghiệp phải xác
định cho mình cơ chế hoạt động trên hai thị trường đầu vào và thị
trường đầu ra để đạt được kết quả cao nhất.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh với động cơ là kiếm lợi
nhuận. Trong cơ chế thị trường, thì lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là
động lực kinh tế để doanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử
dụng hợp lý tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh.
Thật vậy, nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp phải bỏ ra những chi
phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động và tiến vốn trong quá trình sản xuất
kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Họ muốn hàng hoá và dịch vụ của mình được
bán ra với giá cao để bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra. Nếu xét về mặt định
lượng hiệu quả kinh doanh chính là khoản chênh lệch giữa kết quả thu được và
chi phí bỏ ra, và nâng cao hiệu quả kinh doanh nghĩa là tăng khoản chênh lệch
này lên tối đa trong điều kiện cho phép. Vậy có thể thấy được hiệu quả kinh
doanh chính là chỉ tiêu biểu hiện mục tiêu thực hiện và nâng cao hiệu quả kinh
doanh là công cụ để thực hiện mục tiêu.
13
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
13
14
Nếu xét về mặt định tính thì hiệu quả kinh doanh biểu hiện chất lượng đạt
được của mục tiêu, nó phản ánh trình độ của lực lượng sản xuất bao gồm tất cả
các khâu, các bộ phận và từng cá nhân riêng lẻ của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu
quả kinh doanh về mặt định tính tức nâng cao trình độ khai thác, quản lý và sử
dụng các nguồn lực trong sản xuất, đảm bảo sự tăng trưởng về mặt lượng gắn
liền với sự phát triển về chất. Đây chính là lý do buộc doanh nghiệp phải nâng
cao hiệu quả kinh doanh nhằm thực hiện phát triển bền vững trong xu hướng
chung.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là nhân tố thúc đẩy khả năng cạnh
tranh trong kinh doanh của doang nghiệp. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp
nhận cạnh tranh. Thị trường càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
lại càng khốc liệt hơn, đó là sự cạnh tranh về chất lượng, giá cả, các dịch vụ hậu
mãi Với mục tiêu là phát triển, thì cạnh tranh là một nhân tố làm doanh nghiệp
mạnh lên và cũng là nhân tố làm doanh nghiệp thất bại. Do vậy, để tồn tại và
phát triển thì doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh tranh. Để thực hiện
điều này thì tất yếu doanh nghiệp đều phải nâng cao chất lượng hàng hoá dịch
vụ với giá cả hợp lý Mặt khác, hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc giảm
giá thành, tăng khối lượng, chất lượng hàng bán và là hạt nhân cơ bản của sự
thắng lợi trong cạnh tranh. Và các doanh nghiệp cạnh tranh nhau tức là không
ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
1.4. Phương hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Tăng doanh thu bán hàng.
- Giảm thiểu các chi phí bỏ ra ( chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp).
- Đầu tư máy móc thiết bị để nâng cao dây chuyền sản xuất.
- Sản phẩm đưa ra nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
- Sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào của sản xuất.
- Nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội.
14
Luận Văn Cao Học QTKD Trần Huy Bình
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét