LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản": http://123doc.vn/document/1055219-dam-bao-thuc-hien-hop-dong-tin-dung-ngan-hang-bang-the-chap-tai-san.htm
hệ thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, nêu ra
những bất cập của pháp luật hiện hành về trình tự thủ tục của việc xác lập, đăng
ký và công khai hóa tài sản thế chấp nhằm bảo đảm thực hiện hợp đồng tín
dụng ngân hàng. Từ đó đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về
thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
Từ mục đích nghiên cứu như vậy, luận án đặt ra các nhiệm vụ cụ thể
như sau:
- Làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn về bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng ngân hàng bằng thế chấp tài sản.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo
đảm thực hiện hợp đồng tín dụng.
- Đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài
sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
Là công trình nghiên cứu luật học nên luận án chỉ tiếp cận thế chấp tài
sản dưới góc độ là loại quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt
khác, luận án không nghiên cứu toàn bộ các vấn đề liên quan đến thế chấp tài
sản với tính cách là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà
nghiên cứu nó với tính cách là một biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín
dụng ngân hàng ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy phạm pháp luật về thế
chấp tài sản mà chủ yếu là các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thế
chấp tài sản để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, đối
tượng nghiên cứu của luận án còn bao gồm các sự kiện pháp lý, các quan hệ
pháp luật phát sinh từ thực tế, các tư liệu thực tế về áp dụng pháp luật thế
chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng.
5
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đặc biệt là đường lối, chính sách về phát triển
hệ thống ngân hàng và hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu và
có tính phổ biến như: Phương pháp tiếp cận lịch sử, phương pháp đối chiếu,
phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích kết hợp giải thích và
tổng hợp, khái quát hóa
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án có một số đóng góp mới sau đây:
- Làm rõ lý luận về bảo đảm tiền vay và pháp luật về bảo đảm tiền
vay, đưa ra nhận thức mới, đúng đắn và khoa học về bảo đảm tiền vay trên cơ
sở phân biệt biện pháp bảo đảm tiền vay với các biện pháp phòng ngừa rủi ro
khác; phát hiện và luận chứng có cơ sở khoa học và thực tiễn về bản chất của
thế chấp, các yếu tố chi phối nội dung pháp luật về thế chấp tài sản để đảm
bảo thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng.
- Đánh giá toàn diện, có căn cứ khoa học và thực tiễn pháp luật Việt
Nam về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng,
đưa ra được các kết luận chính xác về nguyên nhân của thực trạng đó.
- Chỉ ra được những yêu cầu mang tính khách quan và chủ quan,
những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản để
bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng.
6
- Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và các kiến nghị bảo đảm
thực hiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng
thế chấp tài sản ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 3 chương, 14 mục.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Tín dụng là hoạt động quan trọng và đặc trưng của hệ thống ngân
hàng thương mại và các TCTD khác. Tín dụng cũng là hoạt động mang tính rủi
ro rất cao. Vì vậy, chất lượng hoạt động tín dụng mang ý nghĩa sống còn đối với
sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Theo giáo sư V.S.Pascốpxki trong bài giảng "Tín dụng trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội" tại Trường Quản lý Kinh tế Trung ương thì
từ tín dụng (Credit) theo tiếng Nga cũng như tiếng các nước Châu Âu khác,
xuất phát từ gốc chữ La tinh Creditum có nghĩa là tin. Ở đây lòng tin đòi hỏi
không những ở người cho vay, mà còn ở cả người vay. Người cho vay tin
tưởng vào khả năng thanh toán của người vay, còn người vay thì tin tưởng
vào khả năng thanh toán của mình [45, tr. 113].
Theo Jane. P. Mallor, A. James Marres trong cuốn "Môi trường pháp
luật cho kinh doanh" thì thuật ngữ tín dụng có rất nhiều nghĩa. Thuật ngữ này
thường được dùng để chỉ các giao dịch trong đó hàng hóa được bán, dịch vụ
được cung ứng hoặc tiền được cho vay để đổi lấy lời hứa về hoàn trả trong
tương lai [53, tr. 534].
Nhiều tài liệu nghiên cứu khác cũng có chung nhận định này [40, tr. 19; 53].
Tín dụng phát sinh hầu như đồng thời với tiền tệ. Chức năng cơ bản của tín
dụng là phân phối vốn giữa những người có cung - cầu vốn theo nguyên tắc
hoàn trả. Về bản chất kinh tế, tín dụng là quan hệ phân phối lại của cải theo
nguyên tắc hoàn trả và có lợi tức. Tính có hoàn là cơ sở để phân biệt tín dụng
với các phương thức phân phối của cải khác trong xã hội. Về bản chất pháp
8
lý, tín dụng là giao dịch tài sản (tiền, hàng hóa) giữa bên cung ứng tín dụng và
bên nhận tín dụng. Trong đó, bên cung ứng tín dụng chuyển giao tài sản cho
bên nhận cung ứng tín dụng sử dụng trong khoảng thời gian nhất định theo
thỏa thuận trên cơ sở hoàn trả vốn gốc và lãi.
Trong đời sống xã hội, tín dụng do nhiều loại chủ thể thực hiện. Tùy
thuộc vào chủ thể cung ứng tín dụng mà tín dụng có thể phân chia thành các loại
như: Tín dụng nhà nước, tín dụng hợp tác, tín dụng quốc tế, tín dụng ngân
hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Với tư cách là người đi
vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi của các nhà doanh
nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động
vốn trong xã hội; với tư cách là người cho vay, ngân hàng cấp tín dụng cho
các doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một
trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của các doanh
nghiệp, thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội và nền kinh tế phát triển. Tín
dụng ngân hàng được đặc trưng bởi tính chuyên nghiệp của các hoạt động tín
dụng do các tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện. Các tổ chức này gọi là TCTD.
Tổ chức cung ứng tín dụng chủ yếu là các ngân hàng nên hoạt động tín dụng này
được gọi là tín dụng ngân hàng [50, tr. 727]. Ngoài các TCTD cung ứng tín
dụng là các ngân hàng, một số loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ khác
cũng có cung ứng tín dụng như ngân hàng nên hoạt động cung ứng tín dụng
của loại doanh nghiệp này cũng gọi là tín dụng ngân hàng. Do đó, về phương
diện pháp lý không có sự phân biệt hoạt động cung ứng tín dụng của hai loại
chủ thể này trong áp dụng pháp luật ngân hàng.
Hoạt động cung ứng tín dụng (còn gọi là cấp tín dụng) của các TCTD
được thực hiện dưới nhiều hình thức như: chiết khấu chứng từ có giá, bảo
lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, cho vay.
9
Chiết khấu giấy tờ có giá là việc TCTD mua giấy tờ có giá ngắn hạn
thấp hơn mệnh giá để thanh toán bằng mệnh giá khi giấy tờ có giá ngắn hạn
đó đến hạn thanh toán. Quan hệ chiết khấu giữa TCTD và khách hàng được
thiết lập trên cơ sở hợp đồng chiết khấu.
Bảo lãnh ngân hàng là việc TCTD cam kết với bên có quyền sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng của mình (người được bảo lãnh) nếu đến
hạn trả nợ khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Bảo lãnh ngân hàng được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh ký kết giữa
TCTD với bên có quyền (người nhận bảo lãnh).
Cho thuê tài chính là việc TCTD cung ứng vốn cho khách hàng thông
qua việc cho thuê tài sản. Cho thuê tài chính được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng cho thuê tài chính.
Khác với các hình thức cấp tín dụng trên đây, việc cho vay của các
TCTD được thực hiện trên cơ sở ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng. Như
vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng là một trong nhiều hình thức pháp lý để
TCTD thực hiện hoạt động cấp tín dụng.
Luật các TCTD năm 1997 và các quy định trong các văn bản pháp luật
ở Việt Nam về tín dụng ngân hàng không đưa ra khái niệm pháp lý về hợp
đồng tín dụng ngân hàng. Điều 51, Luật các TCTD năm 1997 quy định: Việc
cho vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có
nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền
vay, lãi suất, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết
khác được các bên thỏa thuận.
Trong các tài liệu nghiên cứu, vấn đề tìm một định nghĩa chuẩn cho
hợp đồng tín dụng ngân hàng cũng ít được các nhà khoa học quan tâm.
Trong cuốn "Từ điển thuật ngữ Tài chính tín dụng" của Viện Khoa học
Tài chính, Bộ Tài chính có nêu: "Hợp đồng tín dụng là văn bản ghi nhận những
cam kết giữa người cho vay và người vay về những điều kiện của tín dụng như
10
số tiền vay, phương thức cấp vốn vay, thời hạn vay, phương thức thu nợ, mức lãi
suất, loại hình lãi suất, phương thức thu lãi" [49, tr. 163]. Về cơ bản, định nghĩa
này có nội dung tương tự như định nghĩa trong các văn bản pháp luật, chỉ nêu ra
các yêu cầu về nội dung của hợp đồng tín dụng ngân hàng. Trong cuốn "Giáo
trình Luật ngân hàng Việt Nam", tác giả Nguyễn Tuyến đưa ra định nghĩa: Hợp
đồng tín dụng là sự thỏa thuận chung bằng văn bản giữa TCTD (bên cho vay)
với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó,
TCTD thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm [16, tr.
91]. Định nghĩa này đã đề cập được các dấu hiệu cơ bản của hợp đồng tín dụng
ngân hàng trên các phương diện: chủ thể (bên cho vay là TCTD, bên vay là tổ
chức, cá nhân) đối tượng của hợp đồng (tiền), nguyên tắc cơ bản của quan hệ
hợp đồng (điều kiện hoàn trả tiền vay). Tuy nhiên, nếu quan niệm quan hệ
chuyển giao vốn theo hợp đồng chỉ là "ứng trước một số tiền" sẽ không phản ánh
đầy đủ tính pháp lý của quan hệ vay vốn là bên cho vay chuyển giao quyền sở
hữu vốn vay cho bên vay hay chỉ là chuyển giao quyền sử dụng.
Để làm rõ những dấu hiệu của hợp đồng tín dụng ngân hàng cần thiết
phải làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến bản chất của nó.
Hiện nay còn có nhiều quan điểm về bản chất của hợp đồng tín dụng
ngân hàng. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, hợp đồng tín dụng ngân hàng là
một dạng của hợp đồng vay tài sản [63, tr. 43], [56, tr. 28], [62, tr. 213-218].
Quan điểm về hợp đồng vay tài sản được định hình từ Bộ luật dân sự
(BLDS) La Mã. Theo quyển 44, mục 7, đoạn 1, Điều 2 thì hợp đồng vay tài
sản là quan hệ theo đó, một bên (người cho vay) chuyển giao tài sản cho bên
khác (bên vay) một số lượng tiền hay một số vật cùng loại (đồng loại), khi hết
hạn thỏa thuận trong hợp đồng, bên vay có nghĩa vụ trả lại cho người vay số
tiền hay hiện vật đã vay. Từ tiêu chí để xác định hợp đồng vay tài sản như
vậy, có thể thấy rằng, hợp đồng tín dụng ngân hàng hội đủ điều kiện để xem
là một dạng hợp đồng vay tài sản. Điều đó thể hiện ở chỗ: đối tượng của hợp
11
đồng là tiền vay (một dạng của tài sản), nguyên tắc cơ bản của quan hệ hợp
đồng là bên vay phải hoàn trả tiền vay cho bên cho vay (tài sản vay).
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, hợp đồng tín dụng ngân hàng là một
dạng độc lập trong pháp luật hợp đồng [57, tr. 40-55], [58, tr. 69], [59, tr. 117].
Quan điểm này phù hợp với thực tiễn vận hành nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung và nhà nước độc quyền về kinh doanh ngân hàng ở các nước XHCN
trước đây. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước XHCN thực
hiện độc quyền kinh doanh ngân hàng thông qua mô hình ngân hàng 1 cấp.
Theo mô hình này, toàn bộ hệ thống ngân hàng của Nhà nước là pháp nhân
thống nhất toàn ngành, thực hiện đồng thời các chức năng ngân hàng trung
ương, ngân hàng thương mại và là cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, quan hệ
cho vay giữa ngân hàng và khách hàng bị chi phối bởi chỉ tiêu kế hoạch nhà
nước và tư cách cơ quan quản lý nhà nước của ngân hàng. Trên thực tế, yếu tố
cơ bản của quan hệ hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên hầu như bị triệt tiêu
và hợp đồng tín dụng thực chất là một cam kết (khế ước) hành chính. Ngày
nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các nước XHCN như Trung
Quốc, Việt Nam đều tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng thuộc sở hữu
nhà nước. Kết quả cuộc cải cách này đưa đến việc thiết lập mô hình ngân
hàng hai cấp, tách biệt chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh
của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước) thực
hiện chức năng ngân hàng trung ương và chức năng quản lý nhà nước, không
thực hiện giao dịch mang tính thương mại. Các ngân hàng thương mại của Nhà
nước là những chủ thể kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, không có tư
cách là cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, quan hệ cho vay giữa ngân hàng
thương mại nhà nước với khách hàng được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, thỏa
thuận.
Để làm rõ bản chất của hợp đồng nói chung và hợp đồng tín dụng
ngân hàng nói riêng, cần thiết phải làm rõ đối tượng của hợp đồng. Bởi vì, với
12
tính cách là đối tượng trong giao dịch nên đối tượng chuyển giao giữa các bên
liên quan không chỉ là lợi ích của các bên trong giao dịch mà còn liên quan
đến lợi ích của cộng đồng, của nhà nước, chính sách quản lý của nhà nước và
nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với đối tượng đó. Chẳng hạn, đối tượng
của hợp đồng mua bán chứng khoán do có đặc tính là giá trị ảo (tư bản giả,
theo cách nói của C.Mác) nên nhà nước phải đặt ra nguyên tắc mua bán qua
trung gian v.v Trong kinh doanh ngân hàng việc cấp tiền vay cho khách
hàng có thể thực hiện theo phương thức chuyển giao trực tiếp bằng tiền mặt
hoặc thông qua nghiệp vụ kế toán để nhập tiền vào tài khoản của khách hàng
(bút tệ).
Từ thực tế đó của hoạt động cấp tín dụng nên cũng có ý kiến cho rằng,
nếu trường hợp bên cho vay (TCTD) cấp tiền vay cho khách hàng theo hình
thức bút tệ thì trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng không có sự
chuyển giao tiền là đối tượng của hợp đồng giữa bên cho vay và bên vay.
Trong những trường hợp như vậy, thực chất đối tượng chuyển giao giữa các
bên là quyền sở hữu tiền vay. Chính vì hiện tượng này mà có ý kiến cho rằng,
do đối tượng chuyển giao không phải là tài sản có thực nên hợp đồng tín dụng
ngân hàng không thuộc dạng hợp đồng vay tài sản. Ngược lại, cũng cần thấy
rằng, trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng mặc dầu có hiện tượng bên
cho vay không chuyển giao tiền cho bên vay nhưng với tư cách là bên đã
được vay vốn, khách hàng vẫn có thể sử dụng tiền mặt trong việc sử dụng khoản
vay. Do đó, bản chất của đối tượng của hợp đồng tín dụng ngân hàng vẫn là
tài sản.
Về bản chất pháp lý, hợp đồng tín dụng ngân hàng là một dạng của
hợp đồng vay tài sản. Sự nhìn nhận đúng bản chất pháp lý của hợp đồng tín
dụng ngân hàng là hợp đồng vay tài sản cho phép suy ra hệ quả là khi TCTD
chuyển giao tiền vay cho bên vay là chuyển giao quyền sở hữu tiền vay. Điều
này được ghi nhận trong BLDS ở nhiều nước. Điều 467 BLDS Việt Nam năm
13
1995 quy định: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền hoặc hiện vật, khi đến hạn trả,
bên vay phải hoàn trả tiền hoặc hiện vật cùng loại theo đúng số lượng, chất
lượng và chỉ phải trả lãi, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Trong khi đó, việc thiết lập quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng giữa
TCTD với khách hàng là một hiện tượng kinh tế. Do đó, để giải quyết các vấn
đề liên quan đến hợp đồng tín dụng ngân hàng cần thiết phải làm rõ bản chất
kinh tế của nó.
Trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng, các bên chuyển giao tiền
vay và hoàn trả tiền vay là biểu hiện của cải dưới hình thức giá trị. Do đó, xét về
bản chất kinh tế, quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng là quan hệ vật chất. Điều
này thể hiện ở chỗ, khoản tiền vay chuyển giao và thanh toán giữa các bên, thỏa
mãn lợi ích vật chất của các bên tham gia quan hệ. Với tính cách là một dạng
hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng ngân hàng làm phát sinh quan hệ
phân phối vốn giữa TCTD với tổ chức, cá nhân vay vốn. Do đó, quá trình
giao kết thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng không chỉ liên quan đến lợi
ích của các bên mà còn liên quan đến lợi ích của nền kinh tế, lợi ích của Nhà
nước.
Như vậy, có thể hiểu hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận bằng
văn bản, theo đó, TCTD chuyển giao vốn cho bên vay theo số lượng, thời
gian, mục đích sử dụng nhất định với điều kiện có hoàn trả gốc và lãi tiền vay.
So với các loại hợp đồng khác, hợp đồng tín dụng có các dấu hiệu đặc trưng
sau:
Thứ nhất, TCTD với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ đóng
vai trò là bên cho vay. Khi tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng,
TCTD được tổ chức theo hình thức luật định thực hiện hành vi cho vay mang
tính chuyên nghiệp. Dấu hiệu này cho phép phân biệt hợp đồng tín dụng ngân
hàng với hợp đồng vay tài sản trong các giao dịch dân sự thông thường.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét