Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Những đặc điểm chủ yếu của hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Những đặc điểm chủ yếu của hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến": http://123doc.vn/document/569910-nhung-dac-diem-chu-yeu-cua-hinh-su-viet-nam-thoi-ky-phong-kien.htm


Những đặc điểm chủ yếu của hình sự Việt Nam
thời kỳ phong kiến

Nguyễn Văn Dương


Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Văn Cảm
Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Làm sáng tỏ những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam trong thời kỳ
phong kiến. Đưa ra những ưu, khuyết điểm của hệ thống luật hình sự trong thời kỳ này
nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam hiện nay. Tìm hiểu về khái niệm, đối tượng áp dụng, phạm vi điều chỉnh
của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến, đi sâu vào so sánh những quy định của
luật hình sự thời kỳ phong kiến với những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành.

Keywords: Luật hình sự; Thời kỳ phong kiến; Pháp luật; Việt Nam


Content
MỞ ĐẦU
Hoạt động lập pháp, áp dụng pháp luật của một quốc gia được thực hiện trong suốt cả quá trình
lâu dài và nó có tính kế thừa dù là trong chế độ chính trị nào. Sự kế thừa về mặt tư duy, tư tưởng
pháp luật, cách thức làm luật, áp dụng pháp luật là một quy luật tất yếu của lịch sử. Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm
vụ là "sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật".
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước, các thế hệ ông, cha ta đã xây dựng được một hệ thống
pháp luật mà nói như vua Gia Long trong lời tựa của bộ Hoàng Việt luật lệ: "… lấy giáo hóa làm
việc hàng đầu, tuy vậy cũng quan tâm đặc biệt đến việc xử phạt. Giở xem hình phạt hình luật của
các triều đại trước của nước Việt ta, mỗi triều đại thành lập từ Lý, Trần, Lê đều có pháp chế…".
Tại Việt Nam, xét từ đời Lý (thế kỷ XI) nước ta đã có pháp luật và đặc điểm nổi bật hơn cả
là tất cả các bộ luật đời Lý, Trần đều có tên gọi là Hình luật. Đến đời Lê thì có bộ Lê triều hình
luật, mặc dù trong bộ luật này có cả những quy định về dân sự, tố tụng… đến đời Nguyễn thì vua
Gia Long Nguyễn Ánh cho biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ. Như vậy, các triều đại phong kiến
Việt Nam đã có ý thức trong việc xây dựng pháp luật. Nói như Phan Huy Chú: "Công cụ trị nước
tất phải có hình luật để răn điều gian dối và nghiêm sự cấm ngăn. Thời cổ làm việc chỉ có quy
chế, không dùng hình luật, vì đời thuần phép giản, có thể châm chước tùy nghi được. Đến đời
sau, văn hóa phiền phức, sách hình đặt ra đầy đủ, vạch rõ những cấm chế, nặng nhẹ, chỉ rõ những
đường nên tránh nên theo, điều khoản đặt bày, tuy không còn là theo ý thời cổ, nhưng đề phòng
việc biến và chỉ rõ điển và hình thì người trị nước không thể thiếu được.
Nước Việt ta, các triều dựng nước đều định hình chương: nhà Lý có ban Hình thư, nhà Trần có
ban Hình luật, đều đã tham chước xưa nay để nêu phép tắc lâu dài… Hình là cái giúp cho công
việc trị nước, tuy trong đạo chính trị không phải cái đi trước, nhưng luật pháp để cấm dân làm
bậy thánh nhân có bao giờ bỏ đâu. Cho nên điều luật và lệnh cấm là để phòng ngừa trong việc trị
nước".
Việc xem xét, nghiên cứu các bộ luật cổ (chủ yếu và phần lớn là quy định về hình luật) là
việc làm cần thiết. Bởi lẽ, trải qua mấy thế kỷ dựng nước, giữ nước, xây dựng nền móng cai trị
chắc hẳn các thế hệ đi trước phải để lại cho con cháu những bài học quý báu về cách cai trị hay
nói cách khác đó là cách thức xây dựng và điều hành đời sống nhân dân. Ôn cố tri tân, điều đó là
rất đúng và nó không có gì là mâu thuẫn với chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước pháp
quyền.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các hoạt động tư pháp được quan tâm đặc biệt trong các là
trong các hoạt động tư pháp liên quan đến luật hình sự thì việc học tập các kĩ năng xây dựng, áp
dụng pháp luật của các thế hệ đi trước là điều cần được quan tâm.
Vì vậy, nghiên cứu những đặc điểm chủ yếu của pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong
kiến, đặc biệt là Quốc triều Hình luật đời nhà Lê và Hoàng Việt luật lệ đời nhà Nguyễn là cần
thiết và có ý nghĩa cả về mặt thực tiễn và lý luận.
Đó chính là lý do tại sao tác giả chọn đề tài: "Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự
Việt Nam thời kỳ phong kiến" để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nếu như trong lĩnh vực lịch sử đã có một số đề tài nghiên cứu về Quốc triều Hình luật đời Lê
sơ (Bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ đời Nguyễn, thì trong lĩnh vực luật học đặc biệt
dưới góc độ luật hình sự thì số đề tài nghiên cứu không có nhiều, có thể kể một số công trình
như: Lịch sử luật hình sự Việt Nam, của Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Luật hình sự Việt Nam trước thế kỷ XV,
của GS.TSKH Lê Cảm, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 05/1999; Luật hình sự Việt
Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, của GS.TSKH Lê Cảm, đăng trên tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 08/1999; Khái niệm tội phạm - so sánh giữa Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật hình sự
hiện nay, của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 01/2005.
Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học khác ít nhiều đề cập đến hoàn cảnh ra đời, cách
thức xây dựng, sự khác biệt của những bộ luật Việt Nam thời kỳ phong kiến với những bộ luật
của đất nước Trung Hoa thời kỳ phong kiến. Có thể kể đến luận án tiến sĩ có tên là "Essais sur le
code Gia long" (86 trang) (Tiểu luận về luật Gia Long) của luật sư Phan Văn Trường (1875-
1933), đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn và
cuốn Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử của GS Vũ Văn Mẫu - một công trình khoa học nghiên cứu
về pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến. Như vậy, có thể nói, đến nay chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về luật hình sự Việt Nam trong thời kỳ phong kiến.
Vì vậy, nghiên cứu về những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam trong thời kỳ phong
kiến để rút ra những kinh nghiệm quý báu đã được đúc kết qua hàng nghìn năm của ông cha là
cần thiết đồng thời từ đó chúng ta kế thừa các giá trị pháp luật truyền thống tốt đẹp để tiếp tục
hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự
Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Đồng thời đưa ra những ưu, khuyết điểm của hệ thống luật
hình sự trong thời kỳ này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Nội dung nghiên cứu đề cập đến khái niệm, đối tượng áp
dụng, phạm vi điều chỉnh của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến, đi sâu vào so sánh những
quy định của luật hình sự thời kỳ phong kiến với những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu những đặc trưng của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến (từ
thế kỷ thứ X đến giữa thế kỷ XIX). Qua đó phân tích, đánh giá, so sánh với những quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam đương đại, đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng đồng thời các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: so
sánh, phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử.
6. Những đóng góp của đề tài
Có thể coi những nội dung được đề cập trong luận văn là sự tìm tòi những giá trị trong luật
hình sự Việt nam thời kỳ phong kiến. Mặc dù đã được ban hành cách đây hàng trăm năm, nhưng
các bộ luật cổ của Việt Nam có rất nhiều giá trị đối với đương đại mà chúng ta đã, đang và cần
tiếp tục kế thừa, tham khảo những giá trị tích cực trong việc hoàn thiện hơn nữa các quy định của
pháp luật hình sự đương đại, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý
và Trần (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV).
Chương 2: Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời Hậu Lê (từ thế kỷ XV
đến cuối thế kỷ XVIII).
Chương 3: Một số đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời Nguyễn {từ đầu thế kỷ
XIX đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858)}.
Chương 1
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THỜI NGÔ, ĐINH,
TIỀN LÊ, LÝ VÀ TRẦN
(Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV)
1.1. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự thời Ngô, Đinh, Tiền Lê
Năm 938, sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đem lại nền độc lập, tự chủ cho
đất nước. Ông cho định đô ở Cổ Loa, phục hồi, phát triển nền kinh tế, xã hội và thiết lập các thiết
chế chính trị, pháp luật để cai trị đất nước. Tuy nhiên, thời kỳ này thì các văn bản liên quan đến
pháp luật nước ta không còn nhiều, chúng đã bị quân xâm lược nhà Minh cướp mất, đến nay
không còn để lại gì nên việc nghiên cứu rất khó khăn, chúng ta chỉ biết vài nét về các hình phạt
nặng nề được sử dụng ở thời kỳ này, như để trấn áp những kẻ chống đối, nhà Đinh dùng những
hình phạt khốc liệt như đặt vạc dầu lớn giữa sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi và quy định: Ai có tội
sẽ bị bỏ vào vạc dầu nấu hay cho hổ ăn.
Có thể nói, tính chất đàn áp khắc nghiệt cao độ của hình pháp trong thời kỳ này thể hiện rõ
trong hình phạt dưới các triều Đinh và Tiền Lê. Các triều đại này coi tội phạm hóa các hành vi đe
dọa quyền lực của triều đình là sự tiếp tục và hỗ trợ cho cuộc đấu tranh quân sự chống lại những
tàn dư của nạn cát cứ diễn ra trước đó, nhằm ổn định, thống nhất đất nước.
Thời kỳ đầu của quá trình đem lại nền độc lập, tự chủ nước nhà nên việc ổn định, phát triển
đất nước là công việc hết sức khó khăn nên việc tồn tại những hình phạt hà khắc là cần thiết để
đảm bảo ổn định cho đất nước. Pháp luật là một công cụ để ổn định và phát triển xã hội nên tùy
thuộc từng hoàn cảnh, điều kiện của mỗi thời kỳ mà nó tồn tại để nó phù hợp với hoàn cảnh, điều
kiện của thời kỳ đó.
1.2. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự thời nhà Lý (1010 - 1225)
Sau khi Lê Long Đĩnh chết (năm 1009) triều đình đã suy tôn một người khác họ là Lý Công
Uẩn lập ra triều Lý, mở ra một giai đoạn mới của lịch sử dân tộc, giai đoạn xây dựng đất nước
với quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển của dân tộc.
Pháp luật của các triều vua đời Lý có đặc điểm:
- Bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền, đặc biệt pháp luật thời kỳ này đã hạn chế thế lực
của tầng lớp quan lại, quý tộc nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế
- Được hình thành dựa trên nền tảng pháp luật hai triều đại phong kiến Trung Hoa là Đường
và Tống.
Pháp luật thời nhà Lý là pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhà nước trung ương tập quyền và
của tầng lớp quý tộc quan liêu, củng cố chế độ đẳng cấp, bảo vệ tư hữu, bảo vệ sự phát triển của
quốc gia, làm cho quốc gia vững mạnh.
1.3. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự thời nhà Trần (1225 - 1400)
Với sự biến ngày 10 tháng 01 năm 1226 triều Lý đã phải rời bỏ vũ đài chính trị để nhường
chỗ cho một vương triều mới: triều Trần. Trên nền tảng vững chắc đã được xây dựng từ thời Lý,
triều Trần tiếp tục công việc dựng nước và giữ nước.
Luật hình sự thời Trần bảo vệ sự bất bình đẳng trong xã hội. Việc chuộc tội bằng tiền đã tạo
ra sự lộng hành của giới quý tộc và những người giàu có đối với đông đảo nhân dân. Chế độ hình
phạt thời nhà Trần rất hà khắc, thời kỳ này chế độ ngũ hình (xuy, đồ, trượng, đồ, lưu, tử) được áp
dụng rộng rãi và được bổ sung thêm hàng loạt các hình phạt có tính chất đầy đọa thân thể, lăng
nhục, xúc phạm con người như chặt chân, ngón chân, ngón tay, thích chữ vào mặt, bắt làm nô tỳ
cho người khác.
Luật hình sự thời nhà Trần đặc biệt bảo vệ chế độ tư hữu ruộng đất, năm 1245 Trần Thái
Tông ban hành chính sách bán ruộng công thành ruộng tư. Sở dĩ, luật hình sự thời kỳ nhà Trần
nghiêm khắc như vậy theo tôi có một số lý do sau:
- Nhà Trần lên nắm quyền lực với vai trò là ngoại thích, họ hiểu rõ cái giá phải trả cho việc
nhẹ tay với các đối thủ. Do vậy, hình luật hà khắc là một trong những biện pháp mà nhà Trần áp
dụng.
Kết luận chương 1
Tóm lại, mặc dù nguồn tư liệu về luật hình sự Việt nam thời kỳ phong kiến trước thế kỷ XIX
còn rất nhiều tản mạn và hầu như không còn nhưng trên những nét cơ bản từ các nguồn sử liệu
cũ ta thấy nổi lên một số vấn đề sau:
a/ Pháp luật bảo vệ sự bất bình đẳng trong xã hội
b/ Nguyên tắc trách nhiệm hình sự tập thể được áp dụng trong một số trường hợp.
c/ Chế độ hình phạt hà khắc. Thời kỳ này chế độ ngũ hình cổ điển (xuy, trượng, đồ, lưu, tử)
được áp dụng rộng rãi và bổ sung thêm hàng loạt các hình phạt khác có tính chất đầy đọa thân
thể, lăng nhục, xúc phạm con người như chặt ngón chân, ngón tay, thích chữ vào mặt, chôn sống,
bắt làm nô tỳ cho người khác.
d/ Pháp luật thời kỳ này, trước hết bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của vua quan và các
tầng lớp trên của xã hội.
đ/ Pháp luật thời kỳ nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê có một quy chế thành văn ra sao chúng ta chưa
rõ. Đến thời kỳ Lý - Trần, pháp luật bảo vệ trật tự luân lý theo tinh thần Nho giáo và trật tự đẳng
cấp trong xã hội.
e/ Pháp luật thừa nhận và bảo vệ chế độ tư hữu.
Luật hình sự thời kỳ Lý - Trần, không định nghĩa cụ thể tội phạm là gì. Mà xác định trực tiếp
những hành vi nào là phạm tội và xử lý chúng như thế nào. Có thể nói, luật hình sự nhà Lý, nhà
Trần không có tính khái quát cao mà mang tính trực tiếp điều chỉnh những hành vi nào xâm
phạm đến lợi ích của xã hội, của nhà nước trung ương tập quyền. Điều này là phù hợp trong hoàn
cảnh xã hội lúc đó, trong một xã hội nhỏ (Đại Việt thời kỳ đó rất nhỏ chỉ bằng một nửa Việt Nam
hiện nay về diện tích và dân số ước chừng hơn một triệu người) thì điều chỉnh bằng việc luật đưa
ra trực tiếp vấn đề cần điều chỉnh là rất hợp lý. Ở một quốc gia nhỏ thì dễ quản lý hơn bằng cách
đề cập tới từng vấn đề trực tiếp, không quá trừu tượng và khái quát trong cách suy nghĩ, thực
hành là yếu tố quan trọng cho sự khả thi của các quy định pháp luật.

Chương 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU
CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THỜI HẬU LÊ
(Từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII)
2.1. Hệ thống pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê
Các hoạt động lập pháp của nhà Lê nhằm xác định ý chí của giai cấp phong kiến. Thế kỷ XV
được coi là cái mốc hết sức quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam, nhằm đáp ứng những
nhu cầu phát triển trong giai đoạn xác lập và phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến. Dưới
thời Lê Thái Tông, một số nguyên tắc xét xử kiện cáo và một số điều luật nghiêm cấm nạn hối
lộ, hoạt động giao thiệp với nước ngoài được xây dựng thêm. Năm 1449, Lê Nhân Tông ban
hành 14 điều luật khẳng định và bảo vệ quyền tư hữu ruộng đất, quy định nguyên tắc xét xử
những hành vi xâm phạm đến quyền tư hữu đó. Sang thời Lê Thánh Tông, triều đình ban hành
nhiều quy định về việc trấn áp các hành vi chống đối, làm nguy hại đến nền an ninh quốc gia và
địa vị thống trị của giai cấp phong kiến, về việc bảo vệ tôn ty, trật tự, đạo đức theo tinh thần Nho
giáo.
Với những hoạt động lập pháp tích cực nói trên, triều Hậu Lê đã để lại những thành tựu đáng
kể trên lĩnh vực luật pháp và điển chế. Trong đó có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Quốc triều Hình luật (còn gọi là Lê triều hình luật hay Bộ luật Hồng đức) gồm 06 quyển, Luật
thư gồm 06 quyển do Nguyễn Trãi soạn năm 1440-1442, Quốc triều luật lệnh gồm 06 quyển do
Phan Phu Tiên soạn năm 1440-1442, Lê triều quan chế soạn năm 1471, Thiên nam dư hạ tập
soạn năm 1483, Hồng Đức thiện chính thư soạn năm 1470-1497…
Trong số những công trình luật pháp kể trên thì Quốc triều Hình luật được coi là bộ luật
quan trọng và chính thống nhất không chỉ trong thời Lê sơ mà còn đối với cả triều Hậu Lê nói
chung.
Cơ cấu của bộ luật như sau:
- Phần đầu của bộ luật có 03 đồ biểu quy định về kích thước các hình cụ, tang phục và việc
để tang.
- Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung
các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v).
- Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm
vệ.
- Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội
về chức vụ.
- Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ,
các tội quân sự.
- Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm
trong các lĩnh vực này.
- Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về
điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương
hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
- Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
- Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị
như phản nước hại vua.
- Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo,
lăng mạ v.v.
- Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
- Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh trên đây.
- Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực
này.
- Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm
trong lĩnh vực này.
2.2. Các đặc điểm pháp lý hình sự được quy định trong Quốc triều Hình luật thời Lê
2.2.1. Vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự
Vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự đã được điều chỉnh về mặt lập pháp tương đối đầy đủ
trong Quốc triều Hình luật thời Lê.
Điều 14 quy định: "Các quan có trách nhiệm cai quản viên chức hay quân dân mà phạm tội
do sơ suất, sai lầm, thì từ tội lưu trở xuống cho chuộc tiền. Phạm tội trong khi chưa làm quan đến
khi làm quan (nghĩa là có phẩm hàm từ lục phẩm trở lên) việc mới phát, phạm tội khi ở chức
thấp, đến khi thăng chức việc mới phất" đều cho giảm tội một bậc…".
Điều 17 quy định: "Phàm lúc phạm tội chưa già, chưa có tật, mà khi việc phát lộ thì đến tuổi
già hay có tật thì cũng xử như người già và người tần tật. Những người trong khi đương chịu tội
đồ mà đến tuổi già hoặc trở nên tàn tật thì cũng xử như thế. Phạm tội trong khi còn nhỏ, đến khi
lớn việc mới phát lộ cũng được luận tội như trẻ nhỏ".
Điều 15 quy định: "Những người bị đồ lưu đi đường mà gặp lệnh ân xá thì đều được xá theo
luật".
Các điều luật trên cho chúng ta thấy hiệu lực về thời gian của đạo luật hình sự.
2.2.2. Về vấn đề tội phạm
Quốc triều Hình luật nhà Lê không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm mà
chỉ quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho chế độ phong kiến là tội phạm và phải
chịu hình phạt. Khi nghiên cứu các quy định về tội phạm trong Quốc triều Hình luật thời Lê ta có
thể thấy một số nét chủ yếu sau:
a/ Mười tội đặc biệt nghiêm trọng (Thập ác) đã được các nhà làm luật thời kỳ này tách riêng
ra và ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm từng tội này - mưu phản, mưu đại nghịch, mua
bạn, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
b/ Dấu hiệu duy nhất bị nhà làm luật coi là Thập ác - tính chất nguy hiểm cho xã hội không
chỉ của hành vi mà cả ý định phạm tội.
Về các nhóm tội phạm trong Quốc triều Hình luật nhà Lê có thể phân ra như sau:
1/ Nhóm tội phạm thuộc Thập ác gồm có:
+ Mưu phản (mưu làm hại xã tắc);
+ Mưu đại nghịch (mưu phá hủy tôn miếu, lăng tẩm và cung điện của nhà vua);
+ Mưu bạn (mưu phản nước theo giặc);
+ Mưu ác nghịch;
+ Bất đạo;
+ Đại bất kính;
+ Bất hiếu;
+ Bất mục;
+ Bất nghĩa;
+ Mười là nội loạn.
Đây là nhóm tội gồm có mười tội nặng nhất xâm hại đến quyền lực của vua, đến sự tồn tại của
nhà nước, đến sự tồn vong của quốc gia, xâm hại tới những quan hệ xã hội quan trọng nhất theo
quan điểm của Nho giáo.
2/ Nhóm các tội khác:
Là nhóm tội được quy định ngoài các tội Thập ác.
- Quốc triều Hình luật không phân biệt mức độ của tính nguy hiểm của tội phạm với mức độ
của tính nguy hiểm của những hành vi mà theo luật hiện đại chỉ là vi phạm đạo đức hoặc vi phạm
hành chính, kỷ luật… Theo quy định của Bộ luật này thì tất cả các hành vi nói trên đều bị coi là
tội phạm, không phụ thuộc vào mức độ của tính nguy hiểm.
2.2.3. Vấn đề "lỗi" được quy định trong Quốc triều Hình luật
Pháp luật hình sự thời kỳ này mà cụ thể là pháp luật hình sự trong bộ Quốc triều Hình luật
nhà Lê không đưa ra một khái niệm khái quát về lỗi mà chỉ đề cập đến hai hình thức lỗi cố ý và
vô ý. Căn cứ vào mức độ hình phạt đã được quy định cho các tội và các trường hợp phạm tội của
các tội đó chúng ta có thể suy ra quan niệm của nhà làm luật thời kỳ đó về các yếu tố ảnh hưởng
đến mức độ nặng nhẹ của tội phạm hay nói cách khác, là mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Khi định tội danh đối với tội phạm do luật quy định, nếu muốn giảm nhẹ tính chất của nó
mặc dù đó là tội nặng và nếu nó được thực hiện một cách vô ý thì có thể coi đó là một tội nhẹ,
hoặc nếu muốn tăng nặng tính chất của nó mặc dù đó là tội nhẹ và nếu bó được thực hiện một
cách cố ý - thì có thể coi đó là một tội nặng. Bằng quy phạm này, nhà làm luật đã giao cho quan
xử án toàn quyền tùy nghi để coi bất kỳ tội phạm nào không được ghi nhận trong luật là tội "nhẹ"
hay "nặng" mà chỉ cần căn cứ vào một điều kiện duy nhất - hình thức lỗi (vô ý hay cố ý) của tội
phạm được thực hiện.
2.2.4. Trách nhiệm hình sự đối với tập thể được quy định trong Quốc triều Hình luật
Quốc triều Hình luật thời Lê không quy định trách nhiệm hình sự đối với "bảo" như thời Lý -
Trần. Mà chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với tập thể khi có các hành vi phạm tội xâm phạm
tới các điều luật từ mưu bạn trở lên (bao gồm: mưu phản, mưu đại nghịch và mưu bạn)
2.2.5. Về các giai đoạn thực hiện tội phạm được quy định trong Quốc triều Hình luật
Quốc triều Hình luật nhà Lê không có định nghĩa về các giai đoạn thực hiện tội phạm. Tuy
nhiên, bộ luật này có đề cập đến thực tế của các giai đoạn thực hiện tội phạm. Cụ thể là đối với
các tội như mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn, giết người, tại các điều 411, 412, 416, 417,
418, 419 có quy định về các hành vi dự mưu, tức là hành động chưa xảy ra.
2.2.6. Về vấn đề đồng phạm
Quốc triều Hình luật thời Lê đã đề cập tới vấn đề đồng phạm nhưng cũng như các chế định
trước đó đã đề cập, pháp luật thời kỳ này không có khái niệm cụ thể mà chỉ có các nguyên tắc xử
lý trong từng điều luật cụ thể.
Quốc triều Hình luật nhà Lê có một quy định khá đặc biệt đó là trường hợp xúi giục người
khác phạm tội hoặc vì thù ghét hay ham tiền thưởng mà rủ người khác phạm tội rồi cáo giác thì
đều bị xử như người phạm tội., đây là trường hợp xúi giục thực hiện tội phạm nhưng không phải
là đồng phạm. Giữa người phạm tội và người xúi giục không hình thành quan hệ đồng phạm vì
không thỏa mãn các dấu hiệu chủ quan của đồng phạm là cùng cố ý, cụ thể là người xúi giục
không muốn hậu quả xảy ra. Tại Điều 539 quy định:
"Xui dỗ gian dối để cho người ta phạm pháp (đây là không biết mà phạm) hay rủ người làm
việc phạm pháp (biết là có tội mà cũng làm), rồi bắt hay cáo giác ngay, hoặc bảo người bắt hay
cáo giác, để cầu được tiền thưởng, cùng là vì hiềm ghét mà muốn khiến người ta mắc tội, thì đều
phải cùng chịu tội với kẻ phạm".
2.2.7. Những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi
Cũng như các chế định khác, Quốc triều Hình luật không có một khái niệm chính xác trường
hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi nhưng các nhà làm luật đã đưa trực tiếp vấn đề đó vào
trong điều luật, tức là các nhà làm luật đã chi tiết hóa, cụ thể hóa từng vấn đề rồi các quy phạm
pháp luật đó điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể.
Theo quy định tại Quốc triều Hình luật thì các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi, nhìn dưới lăng kính khái quát hóa của khoa học pháp lý hình sự hiện đại thì có thể đưa
ra các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi như sau:
- Nhóm thứ nhất - những trường hợp không bị coi là có lỗi (bao gồm các trường hợp: phòng
vệ chính đáng, bắt người phạm tội quả tang, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, một số trường
hợp là phạm tội do vô ý).
- Nhóm thứ hai - những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
(bao gồm các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự).
- Nhóm thứ ba - những trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự (như chưa đến
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc quá tuổi chịu trách nhiệm hình sự).
Trong các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi kể trên chúng ta thấy rõ sự khác
biệt trong quy định tại Quốc triều Hình luật với Bộ luật hình sự năm 1999 của nước CHXHCN
Việt Nam được sửa đổi, bổ sung năm 2009, hầu hết các quy định về các trường hợp loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đều có
mặt tại Quốc triều Hình luật nhưng có một trường hợp là người già từ 70 tuổi trở lên thì Bộ luật
hình sự năm 1999 không có.
Đây là điểm khác biệt lớn giữa hai bộ luật, ở Quốc triều Hình luật toát lên sự kính trọng
người cao tuổi, yêu quý con trẻ, thông cảm với hoàn cảnh của người tàn tật thấm đẫm tinh thần
dân tộc.
2.2.8. Những quy định về hệ thống hình phạt của Quốc triều Hình luật
- Loại thứ nhất: Xuy hình [đánh bằng roi], có năm bậc: 10 roi, 20 roi, 30 roi, 40 roi, 50 roi.
- Loại thứ hai: Trượng hình [đánh bằng gậy], có năm bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng,
90 trượng, 100 trượng.
- Loại thứ ba: Đồ hình (đày làm khổ dịch), có ba bậc.
- Loại thứ tư: Lưu hình [đày phát vãng], có ba bậc (chi làm từ châu gần đến châu xa, có thêm
bớt).
- Loại thứ năm: Tử hình [giết chết], có ba bậc (từ giảo trảm đến lăng trì gồm ba bậc. Giảo
với trảm kể là một bậc, khiêu và lăng trì kể riêng là hai bậc, có thêm bớt).
Ngoài hình phạt bổ sung là hình phạt tiền còn có hình phạt bổ sung nữa là hạ trật (biếm
chức).
Hai hình phạt bổ sung của Quốc triều Hình luật là điểm khác biệt của bộ luật này với các bộ
luật của các quốc gia láng giềng mà điển hình là Trung Hoa, kể cả sau này bộ Hoàng Việt luật lệ
không có hai hình phạt bổ sung này. Đây có thể nói là điểm rất tiến bộ của Quốc triều Hình luật,
tiếp cận với các quy định của luật hình sự hiện đại.
Việc áp dụng hình phạt đối với các đối tượng khác nhau cũng có sự phân biệt. Phân biệt giữa
người già, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật với các thành phần còn lại trong xã hội. Sự phân biệt này
được tôi nêu cụ thể trong phần sau của luận văn.
2.2.9. Nguyên tắc nhân đạo được quy định trong Quốc triều Hình luật
Quốc triều Hình luật cũng như các văn bản pháp luật khác được xây dựng dưới triều đại nhà
Lê với ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Khổng - Mạnh, một triết lý mang đậm tính nhân văn,
đạo đức. Triết lý này lấy đạo đức con người là trung tâm của mọi mối quan hệ trong xã hội, do
vậy, Quốc triều Hình luật cũng mang đậm tính nhân văn theo tinh thần Nho giáo. Đặc biệt hơn
nữa trong Quốc triều Hình luật đặt ra mức hình phạt dành cho người phạm tội là phụ nữ và hình
phạt đối với phụ nữ có thai cũng phản ánh tính chất nhân đạo. Qui định này được đánh giá rất
cao về sự tiến bộ của nó, nếu đặt nó trong mối liên hệ với quan niệm phong kiến (chịu ảnh hưởng
lớn của tư tưởng Nho giáo) về địa vị thấp kém của người phụ nữ so với người chồng trong gia
đình. Tính nhân đạo còn được thể hiện ở chỗ cho phép hoãn hình phạt đối với phụ nữ đang có
thai và 100 ngày sau khi sinh con.
Các quy định của Quốc triều Hình luật có rất nhiều điểm tiến bộ so với sự phát triển của xã
hội trong thời kỳ đó.
Các điểm tiến bộ thể hiện ở chỗ: Các quy định về hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng
thấp hơn so với phạm nhân nam khi mà cùng phạm một tội.
Kết luận chương 2
Qua sự phân tích các đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời kỳ nhà Lê thông qua
các quy định trong Quốc triều Hình luật ta có thể rút ra một số kết luận sau:
Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện được đặc trưng văn hóa của dân tộc, nhiều qui định trong Bộ
luật thể hiện tính sáng tạo cao của nhà làm luật.
Mặc dù chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của bộ Đường Luật sớ nghị thời nhà Đường, nhưng trong
số 722 Điều của Quốc triều Hình luật thì có đến 315 điều (chiếm gần một nửa tổng số điều luật)
là không tìm thấy trong Bộ luật của nhà Đường. Quốc triều Hình luật vừa tiếp thu có chọn lọc tư
tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình. Giống như
các bộ luật phong kiến khác, Quốc triều Hình luật thời Lê thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó.
Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền lợi của giai cấp phong kiến,
củng cố trật tự xã hội và gia đình gia trưởng phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và
đạo đức Nho giáo. Tuy vậy, không thể phủ nhận các điểm đặc sắc và tiến bộ của nó. Thông qua
những công trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý đều thống nhất cho rằng, mặc dù
khác nhau về thể chế chính trị và đã được ban hành cách đây hàng trăm năm, nhưng Quốc triều
Hình luật có rất nhiều giá trị đối với đương đại mà chúng ta đã, đang và cần tiếp tục kế thừa,
tham khảo trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng xã hội dân chủ và tiến bộ.
Những điều luật trong Quốc triều Hình luật đã xác định trách nhiệm của nhà nước thông qua
trách nhiệm của hệ thống quan lại nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người nghèo khổ trong xã
hội (Điều 294; Điều 295).
Quốc triều Hình luật là bộ luật có những thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện
độc đáo bản sắc dân tộc và tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đây là bộ luật đã khẳng
định được giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế giới
bởi những giá trị tiến bộ của nó vượt trước thời đại bấy giờ, và mang tính nhân đạo nhân văn sâu
sắc của người Việt.
Chương 3
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU
CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THỜI NGUYỄN
{Từ đầu thế kỷ XIX đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858)}
3.1. Pháp luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn
Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh: 1762 - 1820) đã ra lệnh cho triều thần biên soạn một bộ
luật nhằm làm cho công cuộc trị nước lâu dài. Bộ luật này có tên là Hoàng triều luật lệ ban hành
năm 1815, thường gọi là Bộ luật Gia long.
Hoàng Việt luật lệ gồm 398 điều, chia làm 22 quyển. Các điều khoản của Bộ luật được chia
làm 6 loại tương đương với việc phân chia công việc nhà nước do 6 bộ phụ trách. Bộ luật có
phần Danh lệ, trong đó quy định những nguyên tắc chung về tội phạm và hình phạt (45 điều), Lại
luật (27 điều), Hộ luật (66 điều), Lễ luật (26 điều), Binh luật (28 điều), Công luật (10 điều). Phần
cuối của bộ luật có Tỷ dẫn điều luật quy định về việc so sánh các trường hợp phạm pháp và
những trường hợp chưa được quy định mà tương tự trong luật để sử dụng hình phạt.
3.2. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự nhà Nguyễn (từ đầu thế kỷ xix đến năm
1858)
Tương tự như pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê, pháp luật hình sự nhà Nguyễn không định
nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm, mà chỉ quy định những hành vi nguy hiểm cho chế độ
phong kiến, xã hội là tội phạm và phải chịu hình phạt. Một số hành vi vi phạm đạo đức, luân lý
như bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nổi loạn được đặt ngang hàng với các tội xâm phạm an ninh
quốc gia như mưu phản, mưu bạn, mưu đại nghịch…Nhà làm luật thời kỳ này còn quy định
những việc không nên làm thuộc phạm trù đạo đức, luân lý thì đều bị coi là tội phạm. Các quy
định của Hoàng Việt luật lệ về các loại tội phạm, hệ thống hình phạt cũng như các nguyên tắc
trừng trị về cơ bản tương tự như Bộ luật Hồng Đức. Tuy nhiên, cách chia khung hình phạt có
khác nhau.
Kết luận chương 3
Hoàng Việt luật lệ là bộ tổng tập luật lệ của triều Nguyễn những qua nghiên cứu thì chúng ta
thấy rằng bộ luật này đã mô phỏng bộ luật nhà Thanh từ tên gọi trở đi. Nếu như các triều đại trước
của Việt Nam đều gọi là Hình thư, Hình luật, Quốc triều Hình luật thì bộ luật nhà Nguyễn được gọi
là Hoàng Việt luật lệ, bộ luật nhà Thanh được gọi là Đại Thanh luật lệ.
Hoàng Việt luật lệ là một bộ tổng luật được xây dựng qua sự mô phỏng bộ luật của triều
Mãn Thanh (Trung Hoa) nên nó không quan tâm đến việc phản ánh phong tục tập quán tốt đẹp
của dân tộc, nó đã tước bỏ đi những kết hợp hoàn hảo của tư tưởng Khổng - Mạnh và phong tục,
tập quán Việt Nam trong bộ luật Hồng Đức. Hình luật của triều Nguyễn mang tính chất trừng trị
rất cao, tính nhân đạo thể hiện không rõ nét. Nhà Nguyễn thống nhất được đất nước nhưng lòng
dân vẫn hướng về nhà Lê nên để trị quốc, an dân nhà Nguyễn đã xây dựng nền pháp luật có tính
trừng trị cao nhằm bảo vệ vương quyền của dòng tộc.

KẾT LUẬN
Tóm lại, qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ Luật học: "Những đặc điểm chủ yếu của
luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến", chúng tôi đưa ra một số kết luận chung dưới đây.
1. Dưới con mắt của các nhà làm luật phong kiến Việt Nam thì pháp luật là Hình. "Hình là
cái giúp cho công việc trị nước, tuy trong đạo chính trị không phải là cái đi trước, nhưng pháp
luật để cấm dân làm bậy thì thánh nhân có bao giờ bỏ đâu. Cho nên điều luật và lệnh cấm là để
phòng ngừa trong việc trị nước. Phép dụng hình của các triều đình phải nên châm chước, để cầu
vừa phải".
Có lẽ, các nhà làm luật thời kỳ đó chỉ muốn một điều là pháp luật là công cụ để trị nước, nói
như Khổng Tử trong Luận ngữ: "Luật pháp chỉ là công cụ dẫn dắt bằng chính, chấn chỉnh bằng
hình, dân chịu mà vô sỉ. Dẫn dắt bằng đức, chấn chỉnh bằng lễ, biết sỉ lại tiêu chuẩn, dân mới
biết tự trọng và vào nề nếp… Pháp luật chỉ khiến người ta sợ mà không dám làm điều ác, còn
dùng đức trị thì người ta xúc động tận trong lòng và tự nguyện thực hiện, không phải vì sợ pháp
luật mà là vì sợ xấu hổ trước người khác, sợ lương tâm cắn rứt đến chết dần, chết mòn ".
2. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều quan niệm rằng: "Trừng phạt để về sau không còn
phải trừng phạt nữa, đặt ra tội hình để về sau không còn phải dùng đến tội hình nữa". Với quan
niệm như vậy, nên các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam có thể gọi đúng theo nghĩa
mà các tác giả của nó vẫn gọi, đó là Hình luật. Mặc dù, trong các bộ luật này có chứa những điều
luật về các ngànhh luật khác như dân sự, hôn nhân, tố tụng… Nhưng tựu trung lại vẫn chủ yếu là
về hình sự. Các nhà lập pháp phong kiến Việt Nam đặt việc ổn định xã hội nên hàng đầu, điều
này là trùng hợp với pháp luật Trung Hoa phong kiến (có thể nói một cách chính xác là chúng ta
học tập họ). Các nhà lập pháp Trung Hoa lấy ổn định đế quốc là mục tiêu. Để duy trì ổn định,
phải tạo ra sự phụ thuộc. Từ ý tưởng này mà tạo ra quan hệ cha con: Thờ cha khi đã chết, Lễ này
liên quan tới tôn giáo, Kính cha khi còn sống, Lễ này liên quan đến pháp luật và phong tục, tập
quán. Đây cũng là quan niệm xuyên suốt của các nhà làm luật Việt Nam thời kỳ phong kiến.
3. Quốc triều Hình luật thời Lê, Hoàng Việt luật lệ là những bộ luật còn lại đến ngày nay của
nước Việt Nam thời kỳ phong kiến, cả hai đã có những thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể
hiện độc đáo bản sắc dân tộc và tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đặc biệt Quốc triều
Hình luật thời Lê là bộ luật đã khẳng định được giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp
luật của dân tộc và trên thế giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vượt trước thời đại bấy giờ, và mang
tính nhân đạo nhân văn sâu sắc của người Việt. Những giá trị trong những bộ luật hình sự thời kỳ
này thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Những bộ luật này ra đời ở một thời điểm rất xa so với hiện tại, nhiều vấn đề không thể so sánh
được, song những giá trị của chúng về kĩ thuật lập pháp thì lại như một hằng số đang liên quan
trực tiếp đến những vướng mắc của hiện tại, rất đáng để ta phải suy ngẫm, kế thừa, ví dụ như:
3.1. Việc xây dựng các chế tài cố định trong Quốc triều Hình luật thời Lê ở một chừng mực
nhất định rất thuận lợi cho việc áp dụng, và có ưu điểm là tránh được sự tùy tiện trong việc áp
dụng. Không nên xây dựng chế tài mà khoảng cách giữa mức thấp nhất và mức cao nhất của chế
tài rộng, rất dễ dẫn đến sự tùy tiện trong việc áp dụng. Xây dựng nhà nước pháp quyền thì nguyên
tắc "cán bộ, công chức sẽ chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép" phải được tuyệt đối
tuân thủ.
3.2. Pháp luật được đảm bảo thực hiện ngày nay phần quan trọng là ở người dân, nếu vậy
luật phải được xây dựng một cách rõ ràng, đầy đủ và cụ thể tất cả các bộ phận (giả định, quy
định, chế tài) của quy phạm pháp luật. Có như thế mới tạo điều kiện để toàn thể mọi tầng lớp
nhân dân hiểu luật, sống và làm việc theo pháp luật. Cũng nên nghiên cứu và học tập các mô tả
tình huống, rồi mở rộng, lường tính tất cả các vấn đề phát sinh trong Bộ luật. Nhà làm luật nên
chăng cần suy nghĩ về các vấn đề phát sinh trong cuộc sống, dự đoán, lường tính các vấn đề phát
sinh, chứ không phải là đi sửa chữa về mặt câu chữ theo kiểu "làm văn tập thể" như một đại biểu
quốc hội đã nói trước Quốc hội.
3.3. Pháp luật thời kỳ phong kiến, đặc biệt là Quốc triều Hình luật thời Lê thể hiện tính nhân
văn sâu sắc, các quy định của nó vừa mang tính đạo đức dân tộc, vừa mang tính quy phạm pháp
luật, là những cơ sở để giáo dục truyền thống, xây dựng những con người Việt Nam có thể hội
nhập với thế giới nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc đã được khẳng định và bảo tồn trong suốt
chiều dài lịch sử.
4. Pháp luật hình sự của Việt Nam thời kỳ phong kiến là phương tiện để điều tiết các quan hệ
xã hội nhờ đó tạo ra được một trật tự xã hội ổn định có tác dụng thúc đẩy xã hội phong kiến Việt
Nam phát triển. Mặc dù còn tồn tại các vấn đề thuộc về bản chất của pháp luật phong kiến như pháp
luật đã thể chế hóa đặc quyền của giai cấp thống trị, bảo vệ các trật tự đẳng cấp phong kiến như trật
tự vua - tôi, trật tự gia trưởng, trật tự đẳng cấp quan liêu. Các trật tự này đều được thiết lập theo
nguyên tắc bất bình đẳng trên cơ sở xác định mối quan hệ trên dưới. Các vấn đề này đã thuộc về bản
chất của pháp luật phong kiến và đương nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến cũng
không thể vượt qua được quy luật này. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến đã
có những quy định mà cho đến nay, chúng ta vẫn phải nhìn nhận một cách đúng đắn về nó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét