LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - chi nhánh hoàn kiếm": http://123doc.vn/document/1053244-mo-rong-hoat-dong-cho-vay-tieu-dung-tai-ngan-hang-thuong-mai-co-phan-cac-doanh-nghiep-ngoai-quoc-doanh-chi-nhanh-hoan-kiem.htm
• Hoạt động cho vay
• Hoạt động thanh toán
• Một số hoạt động khác
1.1.2 Các hoạt động của NHTM
a. Hoạt động huy động vốn
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống
còn quan trọng nhất của NHTM. Ở các nước công nghiệp, sự phát triển nhanh
của thị trường tài chính đã đem đến nhiều tài sản có lợi tức ổn định và thanh
khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của
ngân hàng trở thành sự cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các ngân hàng ở nước
phát triển luôn xuất hiện vấn đề làm sao có đủ vốn cho đầu tư .
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ dựa
trên tiền gửi của khách hàng là chủ yếu. Vốn ngân hàng huy động được bao
gồm những khoản mà nhân dân gửi vào hay nó đi vay các đối tượng trong nền
kinh tế như NHTW, ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, chính quyền địa
phương, vay nước ngoài, doanh nghiệp, dân cư Chính nguồn vay này đã tạo
nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt động của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng huy động vốn kinh doanh của mình thông qua việc cung cấp
các dịch vụ: tiền gửi thanh toán, tiền gửi kỳ hạn, tiền tiết kiệm
Huy động được vốn rồi, NHTM phải làm gì để hiệu quả hóa những
nguồn tài sản này. Hầu hết nguồn hình thành nên tài sản của ngân hàng là vốn
vay nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó từng giờ vì vậy để khỏi thiệt
hại ngân hàng luôn luôn phải thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay là các
tài sản sinh lãi cho ngân hàng.
Hoạt động cho vay hay còn gọi là tín dụng là một trong những hoạt động
mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
b. Hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng để tạo ra lợi
nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp được chi phí tiền gửi,
chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý
Hà Thị Dịu 5 Tài chính 44D
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Để đa dạng hóa
hoạt động cũng như tạo ra tính hấp dẫn của dịch vụ cung cấp, ngân hàng đã
đưa ra nhiều danh mục cho vay đa dạng.
Nếu căn cứ vào thời gian có thể chia tín dụng thành cho vay ngắn, trung,
dài hạn.
Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho
thuê
Theo tài sản đảm bảo cho vốn vay được chia thành cho vay có bảo đảm
bằng tài sản thế chấp, cầm cố và tín dụng không có bảo đảm
Nếu theo tính chất rủi ro của hoạt động cho vay, bao gồm các khoản có
độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp.
Bên cạnh đó có thể phân cho vay thành các hình thức như theo ngành
kinh tế (công, nông nghiệp ), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản
cố định)
Từ cách phân loại trên cho thấy hoạt động cho vay rất phong phú và phức
tạp nhiều rủi ro. Để đảm bảo khả năng an toàn cho mình cũng như tiền gửi của
khách hàng, đòi hỏi ngân hàng phải đánh giá lợi tức mang lại và những điểm
rủi ro của các khoản cho vay và thẩm định mức độ rủi ro, hấp dẫn tương đối
giữa các loại cho vay khác nhau.
Một hoạt động khác cũng khá đặc trưng của ngân hàng, là điểm để phân
biệt ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác là hoạt động thanh toán
c. Hoạt động thanh toán
Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ thanh toán chi trả lẫn nhau phải
dùng hình thức tiền tệ, thanh toán tiền tệ là một yêu cầu khách quan là điều
kiện cần nhất để phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội.
Thanh toán thường được biểu hiện dưới hai hình thức:
- Thanh toán bằng tiền mặt trong đó không có sự xuất hiện của bên thứ
ba, tiền đóng vai trò làm phương tiện trao đổi trực tiếp.
Hà Thị Dịu 6 Tài chính 44D
Chuyên đề tốt nghiệp
- Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt với sự có mặt của bên thứ
ba là ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán, bao gồm tập hợp các
mối quan hệ chi trả tiền tệ được thực hiện bằng cách trích chuyển khoản từ tài
khoản của người này sang tài khoản của người khác tại ngân hàng dưới sự
kiểm soát của ngân hàng mà không dùng tiền mặt. Ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ giữ tiền cho khách hàng, cung cấp séc cho khách hàng sử dụng thay
vì tiền mặt trong chi trả…với thời gian nhanh chóng, không làm trễ nải ứ đọng
tiền của khách hàng.
Trong phương thức thanh toán này ngân hàng giúp đảm bảo an toàn việc
cất giữ và chi, thu nhanh chóng thuận lợi. Ngân hàng đóng vai trò là nơi tập
trung tiền thu góp và phân phát tiền vay mượn và trở thành một cái “chợ tiền”
ai đến góp hoặc rút vốn đều thuận lợi. Ngân hàng làm luân chuyển tiền tệ
trong không gian và thời gian để sinh lời thông qua việc cung cấp các dịch vụ
như: séc, ủy nhiệm chi - ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thanh toán thẻ…
Cho đến nay có thể nói ngân hàng là doanh nghiệp cung cấp nhiều dịch
vụ nhất, người ta biết đến nó không chỉ là cho vay, là nơi gửi tiền khá an toàn
và sinh lợi, hay là hoạt động thanh toán mà còn nhiều hoạt động sinh lời và
tiện ích khác nữa.
d. Hoạt động khác
Bên cạnh hoạt động chính là cho vay, để đảm bảo an toàn và gia tăng thu
nhập các ngân hàng tăng cường đa dạng hóa đầu tư thông qua việc đưa ra
nhiều dịch vụ mới như: Bảo lãnh, bảo quản tài sản, cho thuê thiết bị trung dài
hạn, cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn…
Ngân hàng là một doanh nghiệp đa năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền
tệ. Hệ thống dịch vụ của ngân hàng hiện đại được biết đến với nhiều tiện ích,
song cho vay là hình ảnh của ngân hàng khi người ta muốn có vốn để kinh
doanh hoặc đáp ứng nhu cầu sinh họat.
Ngày nay dân chúng biết đến ngân hàng không chỉ là “quĩ vốn” trong
kinh doanh mà còn là địa chỉ tin cậy giúp cho các cá nhân và gia đình có được
nguồn lực tài chính trong sinh hoạt thông qua dịch vụ cho vay tiêu dùng của
ngân hàng.
Hà Thị Dịu 7 Tài chính 44D
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Ngay từ thời kì sơ khai dưới hình thức là ngân hàng của các thợ vàng,
hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi - thực hiện cho vay với các cá
nhân, chủ yếu là những người giàu nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng. Lúc
này các ngân hàng đã nhận thấy được lợi ích to lớn từ các khoản cho vay tiêu
dùng và từ đó dịch vụ cho vay tiêu dùng đã có cơ sở phát triển.
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu
của cá nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay là nguồn tài chính quan trọng
giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như mua
nhà, mua sắm phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập… trước khi họ có
đủ năng lực tài chính để hưởng thụ.
1.2.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài trợ
chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia
đình, xe cộ…Bên cạnh đó những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du
lịch… cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.
Nhìn chung Cho vay tiêu dùng có những đặc điểm như:
- Khách hàng vay là cá nhân và các hộ gia đình
- Mục đích nhằm phục vụ nhu cầu chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình mà
không xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính
cách của từng khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay.
- Độ rủi ro cao hơn cho vay thương mại, nguồn trả nợ hoàn toàn phụ
thuộc vào thu nhập trong tương lai mà người vay dự đoán do đó sức khỏe,
tình trạng việc làm của người đi vay luôn luôn tiềm ẩn mang đến rủi ro cho
khoản tín dụng (mất việc, tai nạn, mất sức lao động…), bên cạnh đó chất
lượng các thông tin tài chính của khách hàng thường không cao dẫn đến mức
độ rủi ro khoản cho vay này cao hơn.
- Chi phí cho vay tiêu dùng cao hơn cho vay thương mại: Các khoản vay
tiêu dùng thường có qui mô nhỏ (trừ những khoản cho vay mua và sửa chữa
Hà Thị Dịu 8 Tài chính 44D
Chuyên đề tốt nghiệp
nhà) nên chi phí giao dịch lớn (chi phí bố trí cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm
định, chi phí thu thập thông tin về khách hàng…).
- Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn cho vay thương mại, xuất
phát từ mục đích của món vay là nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm nên người
vay chỉ chú trọng đến độ thoả dụng của việc mua sắm mang lại mà ít chú ý
đến lãi suất. Đồng thời do qui mô khoản vay thường nhỏ lẻ nên chi phí cao, độ
rủi ro cao hơn do đó lợi tức kỳ vọng khi ngân hàng cho vay tiêu dùng cao hơn
cho vay thương mại.
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng khá cao, xuất phát
từ chi phí và rủi ro của cho vay tiêu dùng cao hơn cho vay thương mại.
- Nguồn trả nợ của khách hàng, món vay tiêu dùng được sử dụng vào nhu
cầu tiêu dùng nên nguồn trả nợ độc lập việc sử dụng tiền vay và nguồn này
được trích từ thu nhập hàng tháng bao gồm toàn bộ thu nhập của tất cả các
thành viên trong gia đình. Nguồn trả nợ của khách hàng có biến động lớn, phụ
thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của
họ.
1.2.3 Phân loại
Căn cứ vào mục đích vay có thể phân loại thành
- Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm phục vụ nhu cầu xây
dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân và hộ gia đình
- Cho vay tiêu dùng không cư trú là các khoản vay nhằm phục vụ nhu cầu
cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng, du học, giải trí…
Căn cứ vào hình thức có thể chia thành 2 loại
(1) Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng
mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc
cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Hình thức này ngân hàng không
trực tiếp tiếp xúc khách hàng.
Hà Thị Dịu 9 Tài chính 44D
Ngân hàng
(1)
(2)
(4)(3)
Công ty bán lẻ Người tiêu dùng
Chuyên đề tốt nghiệp
(1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp
đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được
bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu…
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu
hàng hóa. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài
sản. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(3) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng,
Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
(4) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số đặc điểm: dễ dàng mở rộng và
tăng doanh số cho vay; tiết kiệm và giảm được chi phí khi cho vay; làm cơ sở
mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
khác của ngân hàng…
Tuy nhiên bên cạnh đó hình thức này cũng có nhược điểm: hình thức cho
vay này có độ rủi ro cao do ngân hàng thương mại khi cho vay không tiếp xúc
trực tiếp với khách hàng mà thông qua doanh nghiệp đã bán hàng chịu do đó
thiếu sự kiểm soát của ngân hàng (trước, trong và sau khi giải ngân) khi doanh
nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hóa, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách
hàng; kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ với hình thức này rất phức tạp.
(2) Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau tiến hành cho vay hoặc thu nợ.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện qua sơ đồ sau:
Hà Thị Dịu 10 Tài chính 44D
Công ty bán lẻNgân hàng
Người tiêu
dùng
(5)
(3)
(2)
(4)
Chuyên đề tốt nghiệp
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng vay.
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty
bán lẻ.
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán
lẻ.
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu điểm sau:
Khoản vay tiêu dùng từ hình thức này thường có chất lượng cao bởi ngân
hàng thẩm định trực tiếp khách hàng khi có nhu cầu vay vốn bằng đội ngũ
nhân viên có trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và hệ thống thông tin mà ngân
hàng thu thập được ; hình thức này linh hoạt hơn cho vay gián tiếp vì khi quan
hệ trực tiếp với khách hàng, ngân hàng dễ dàng xử lý tốt hơn các vấn đề phát
sinh…; do đối tượng khách hàng rất rộng nên việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích
mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh
của ngân hàng đến với khách hàng
Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay có thể phân loại tín dụng tiêu
dùng thành
- Cho vay tiêu dùng có cầm cố tài sản, là hình thức mà khoản vay tiêu
dùng được đảm bảo bằng tài sản cầm cố. Hình thức này có ưu điểm là ngân
hàng nắm giữ trực tiếp được tài sản đảm bảo coi như là nguồn trả nợ thứ hai
nếu khách hàng không trả được nợ. Tuy nhiên do tính chất chuyển giao quyền
nắm giữ tài sản đảm bảo nên thủ tục phức tạp, ngân hàng phải có kho bãi và
Hà Thị Dịu 11 Tài chính 44D
(1)
Chuyên đề tốt nghiệp
người canh giữ làm chi phí cho món vay này tăng lên …do đó hình thức này ít
phổ biến.
- Cho vay tiêu dùng có thế chấp, tài sản thế chấp có thể hình thành từ
vốn vay hoặc tài sản khác. Hình thức này đòi hỏi khách hàng vay tiền phải
chuyển các giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu của khách hàng với tài
sản đem thế chấp cho món vay cho ngân hàng mà không cần phải giao quyền
nắm giữ tài sản cho ngân hàng. Hình thức này có nhiều ưu điểm: ngân hàng
không phải trực tiếp quản lý tài sản đảm bảo, khách hàng có thể vẫn vay được
vốn mà vẫn sử dụng được tài sản đem thế chấp, thủ tục đơn giản… Tuy nhiên
do ngân hàng không trực tiếp quản lý tài sản nên độ rủi ro cao do khách hàng
có thể đem tài sản thế chấp đi bán hoặc bảo quản không tốt.
- Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo thông qua người đại
diện (Cho vay tiêu dùng thông qua tín chấp), hình thức này áp dụng với người
vay là CBNV có thu nhập ổn định. Theo phương thức này người đại diện là
thủ trưởng đơn vị , người có uy tín làm thủ tục vay, nhận tiền vay từ ngân
hàng cho người lao động, thu nợ gốc và lãi thay ngân hàng, ngân hàng chỉ làm
việc trực tiếp với người đại diện.
Ưu điểm nổi bật của cho vay tiêu dùng thông qua tín chấp là vừa đạt hiệu
quả kinh tế, vừa đạt hiệu quả xã hội. Về phía ngân hàng, tiết kiệm được nhân
công, giảm chi phí đáng kể trong cho vay và thu nợ, hạn chế được rủi ro, bảo
đảm thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn, quan trọng hơn là mở rộng được quan hệ
và tạo danh tiếng cho mình. Người vay không phải đến ngân hàng, không mất
thời gian cho việc làm thủ tục vay và trả nợ, bảo đảm giờ giấc làm việc. Cho
vay tiêu dùng thông qua tín chấp là “sợi xích vàng” nối công nhân và doanh
nghiệp. Thủ trưởng đơn vị có điều kiện quản lý chặt chẽ hơn nhân viên, đồng
thời góp phần thiết thực chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên từ đó
gắn kết người lao động với đơn vị mình.
Tuy nhiên hình thức này cũng có nhược điểm, do cho vay không có tài
sản đảm bảo mà chỉ cần có xác nhận của người đại diện có thẩm quyền nơi
công tác nên nhiều người lợi dụng tình trạng quản lý lỏng lẻo của đơn vị xin
xác nhận nhiều lần để đi vay ở nhiều nơi gây rủi ro cho ngân hàng. Hạn chế
nữa của phương thức này có thể nảy sinh từ người người đại diện lợi dụng
Hà Thị Dịu 12 Tài chính 44D
Chuyên đề tốt nghiệp
quyền lực chiếm đoạt tiền trả nợ của người vay là lí do phương thức cho vay
này ít phổ biến.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả khoản vay, Cho vay tiêu dùng có thể
chia làm:
(1) Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức Cho vay tiêu dùng trong
đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo
những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp
dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc/ và thu nhập từng thời kỳ của
người đi vay không đủ khả năng tham gia hết một lần số nợ vay.
(2) Cho vay tiêu dùng trả theo định kỳ theo phương thức này tiền vay
được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường
thì các khoản Cho vay tiêu dùng trả theo định kỳ chỉ được cấp cho các khoản
vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
(3) Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản Cho vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc
được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương pháp này, trong
thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu
nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc
vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
- Lãi được tính dựa trên số dư đã được điều chỉnh: Theo phương pháp
này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi chu kỳ sau
khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo cách
này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được
thanh toán.
- Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân.
Hà Thị Dịu 13 Tài chính 44D
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.4. Qui trình cho vay tiêu dùng
1.2.4.1 Thủ tục
Một khoản tín dụng tiêu dùng được thực hiện thường là sau khi khách
hàng phải thực hiện nhiều qui định so với khoản tín dụng khác. Các ngân hàng
khác nhau và các khoản tín dụng tiêu dùng ở từng loại khác nhau cũng có
những thủ tục cụ thể khác nhau. Do vậy để được vay các cá nhân phải thoả
mãn được các qui định này sao cho ngân hàng nắm được những thông tin nhất
định và theo một tiêu chuẩn nhất định. Thường thì các thủ tục do các ngân
hàng qui định gồm:
Đơn xin vay
Các tài liệu liên quan tới thông tin về người vay và thuyết minh
khoản tín dụng như:
- Tài liệu pháp lý: quốc tịch, tuổi, nơi cư trú…
- Các tài liệu thông tin: nghề nghiệp, nguồn thu nhập, thu nhập hàng
tháng, tình trạng gia đình, học vấn…
- Các tài liệu thuyết minh khoản tín dụng: nhu cầu chi phí; mức vốn tự
có; nhu cầu tài trợ. Các tài liệu đảm bảo cho khoản tín dụng (nếu có), gồm có
các tài liệu minh chứng: tài sản thế chấp, vật cầm cố, cam kết bảo lãnh hoặc
các đảm bảo khác như tiền gửi hoặc vàng.
1.2.4.2. Trình tự xét duyệt cho vay
Các yếu tố mà ngân hàng xem xét khi đã nhận được các thủ tục hợp lệ:
a) Năng lực pháp luật của khách hàng
Ngân hàng chỉ thực hiện quan hệ tín dụng tiêu dùng với những cá nhân,
khi họ đủ các yếu tố pháp lý. Nghĩa là những cá nhân không thuộc loại sau:
- Những người vị thành niên: Những người này không cho vay dưới mọi
hình thức bởi vì mọi yêu cầu đòi thanh toán đối với họ đều không có giá trị
(kể cả trong trường hợp có bảo lãnh)
- Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang chấp hành án
Hà Thị Dịu 14 Tài chính 44D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét