LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội": http://123doc.vn/document/1049491-mo-rong-cho-vay-tieu-dung-tai-ngan-hang-thuong-mai-co-phan-quan-doi.htm
Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Giữa Ngân hàng
thương mại và nền kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, nền kinh tế
phát triển là điều kiện cho sự phát triển của Ngân hàng, và chính sự phát triển
thành hệ thống của Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hiện nay, có rất nhiều cách tiếp cận để xem xét Ngân hàng dựa trên các
phương diện khác nhau.
Nếu dựa vào những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, chúng ta
có thể hiểu Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Còn Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam lại xem xét Ngân hàng trên các hoạt động chủ yếu: “Hoạt động
Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều tổ chức tài chính khác như công
ty chứng khoán, quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư… đang nỗ lực cố gắng cung cấp
các dịch vụ của Ngân hàng. Cho nên các Ngân hàng cũng phải mở rộng phạm
vi hoạt động của mình, phát triển các dịch vụ mới để đối phó với các đối thủ
cạnh tranh này.
1.1.2.Những hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Với cách phân loại theo hình thức cấp tín dụng thì hoạt động của Ngân
hàng bao gồm các nghiệp vụ cơ bản như sau: chiết khấu, cho vay, cho thuê tài
sản, bảo lãnh.
Theo Luật các tổ chức tín dụng, chiết khấu được hiểu là “việc tổ chức
tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước
khi đến hạn thanh toán”. Đây là nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm
giữa Ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Ngoài ra, Ngân
hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước
dể đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
Nghiệp vụ cho vay chính là một trong những hoạt động chủ yếu của
Ngân hàng thương mại. Ở nghiệp vụ này có rất nhiều hình thức khác nhau
như: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân
chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua
đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán
của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định.
Còn cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
Ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không đủ
điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Và mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn
và trình Ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Cho vay theo hạn mức là
hình thức tín dụng theo đó Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn
mức tín dụng có thể tính cả kỳ hoặc cuối kỳ. Còn đối với hình thức cho vay
luân chuyển là hình thức cho khách hàng vay dựa vào sự luân chuyển hàng
hóa. Cho vay trả góp là hình thức mà Ngân hàng cho khách hàng trả gốc làm
nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Bên cạnh những hình thức
cho vay trực tiếp là chủ yếu thì ngoài ra Ngân hàng còn có thêm hình thức cho
vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Với
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
nhu cầu vay vốn ngày càng nhiều như hiện nay thì tại các Ngân hàng ngày
càng có nhiều hình thức cho vay khác nhau được hình thành và phát triển.
Cho thuê tài sản là nghiệp vụ trung và dài hạn mà Ngân hàng thực
hiện. Thông thường Ngân hàng thường cho khách hàng vay để mua tài sản,
tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện để vay. Vì
vậy, để mở rộng tín dụng Ngân hàng đã mua các tài sản theo yêu cầu của
khách hàng sau đó tiến hành cho khách hàng thuê. Thêm vào đó, tài sản này
vẫn thuộc sỡ hữu của Ngân hàng. Chính vì thế, Ngân hàng vẫn có thể giảm
bớt được thiệt hại khi thực hiện nghiệp vụ này mà khách hàng không trả được
nợ. Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài
chính. Cho thuê nghiệp vụ là hình thức mà người đi thuê không có ý định
“mua” tài sản sau khi đã thuê để sử dụng. Còn cho thuê tài chính vừa đáp ứng
nhu cầu thuê trong thời gian dài đồng thời người đi thuê có quyền mua lại tài
sản khi hết hợp đồng thuê.
Ngoài ra, Ngân hàng còn tiến hành bảo lãnh cho khách hàng nào có
nhu cầu. Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức
thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Còn
về phía khách hàng thì phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền đã
được trả thay. Theo mục tiêu chúng ta có thể phân loại bảo lãnh ra làm 5 hình
thức khác nhau, đó là: bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh vay vốn, bảo
lãnh đảm bảo thanh toán.
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Bên cạnh việc phân loại theo hình thức cấp tín dụng người ta có thể
phân loại các nghiệp vụ tín dụng theo thời gian, bao gồm: tín dụng ngắn hạn,
tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn là hình thức tài trợ của Ngân hàng cho tài sản lưu
động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp,
hộ sản xuất. Khách hàng có thể vay trực tiếp hoặc gián tiếp, vay theo món
hoặc vay theo hạn mức, có hoặc không cần có đảm bảo, dưới hình thức chiết
khấu, thấu chi hoặc luân chuyển. Các Ngân hàng thương mại sẽ cho vay ngắn
hạn trong những trường hợp như sau: cho Nhà nước vay để tài trợ nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước, cho vay đối với các tổ chức tài chính khác nhằm đáp ứng
nhu cầu thanh khoản, tài trợ cho nhu cầu tăng vốn để sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp…
Tín dụng trung và dài hạn lại là hình thức nhằm mục đích để đáp ứng
nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp, nhu cầu cho đầu tư phát triển
của Nhà nước và nhu cầu thỏa mãn chi tiêu của người tiêu dùng. Hiện nay có
các hình thức tín dụng trung và dài hạn như sau: Thứ nhất là mua trái phiếu.
Đây là hình thức tài trợ của các Ngân hàng cho doanh nghiệp trong quá trình
hình thành tài sản cố định. Thứ hai là cho vay theo các dự án. Khi khách hàng
có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm thực hiện dự án nhất
định, Ngân hàng thương mại có thể cho khách hàng vay sau khi Ngân hàng đã
thẩm định dự án. Cuối cùng là hình thức cho vay đối với người tiêu dùng.
Hình thức này để đáp ứng nhu cầu mua hàng trả góp, hàng hóa lâu bền…cho
các khách hàng cá nhân. Với xu hướng tiêu dùng của dân cư ngày càng gia
tăng thì hình thức này càng có cơ hội phát triển.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ của Ngân hàng cho
mục đích chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Các nguồn cho vay tiêu dùng
là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu
cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học
tập, du lịch, y tế… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ.
Quan hệ tín dụng này được dựa trên nguyên tắc: người đi vay cam kết hoàn
trả đầy đủ cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Trong môi trường phát triển và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cho
vay tiêu dùng cũng như các loại hình tín dụng khác, đều ra đời từ đòi hỏi
khách quan của khách hàng lẫn Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nhu cầu con người hết sức đa dạng và phong phú,
khi nhu cầu cũ được thỏa mãn thì nhu cầu mới lại nảy sinh. Hơn thế, mong
muốn của con người luôn muốn được thỏa mãn các nhu cầu của mình một
cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Tuy nhiên, để thỏa mãn các nhu cầu của
mình, đặc biệt là các nhu cầu về tiêu dùng thì đòi hỏi mỗi cá nhân phải có một
sự tích lũy về tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán. Vì thế hầu hết thời
gian cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu này rất dài. Chính vì mâu thuẫn giữa
nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán mà hình thành nên nhu cầu vay vốn
từ các tổ chức tín dụng trong đó có Ngân hàng để nhằm thỏa mãn các nhu cầu
tiêu dùng khác nhau.
Còn về phía Ngân hàng không chỉ chú trọng nâng cao chất lượng các
hoạt động của mình mà còn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, triển khai các sản
phẩm dịch vụ mới để vừa có thể thỏa mãn nhu cầu khách hàng vừa đủ sức
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác. Vì vậy, các đối tượng khách hàng
cá nhân ngày càng được các Ngân hàng thương mại chú trọng tới, đặc biệt
người tiêu dùng được xem như một khách hàng trung thành tiềm năng và sản
phẩm cho vay tiêu dùng được hình thành từ đó.
Bên cạnh đó, hầu hết các nhà sản xuất đều mong muốn vừa tiêu thụ
được hàng hóa một cách nhanh chóng vừa đảm bảo được thu nhập. Vậy nên
khi các Ngân hàng tài trợ cho người tiêu dùng, không chỉ thõa mãn nhu cầu
cho chính khách hàng của mình mà còn thỏa mãn cả những nhà sản xuất.
Điều này, kích thích nền kinh tế phát triển. Hơn thế, với nền kinh tế ngày
càng phát triển, đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện, thu nhập người
dân ngày càng tăng, một bộ phận trong số họ có thu nhập cao và ổn định.
Điều này tạo nên một nguồn trả nợ chắc chắn nếu các Ngân hàng thương mại
triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng và rủi ro sẽ được giảm thiểu cho Ngân
hàng.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, cho vay tiêu dùng đã được hình thành
và phát triển mạnh ở một số quốc gia trên thế giới trong những năm 1920 –
1930. Một số phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh đã được thành lập. Kết quả
là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng trở thành một
trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất.
Còn ở Việt Nam cách đây khoảng 20 năm trở về trước, khái niệm “cho
vay tiêu dùng” vẫn còn “khá mới mẻ”. Nhưng trong một vài năm trở lại đây,
hoạt động cho vay tiêu dùng đã phát triển rất mạnh mẽ và trở thành mục tiêu
của nhiều tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh. Đi
đầu trong lĩnh vực này ở Việt Nam có thể khẳng định đó chính là Ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu ( ACB), luôn được xem là “Ngân hàng bán lẻ
hàng đầu Việt Nam” trong những năm vừa qua. Trong giai đoạn từ năm 1993
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
đến 1998, hầu hết các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam chủ yếu tập trung
vào cho vay tiêu dùng theo hình thức trả góp, các sản phẩm còn hết sức đơn
điệu. Hơn nữa hành lang pháp lý đảm bảo cho hoạt động cho vay tiêu dùng
còn chưa thực sự rõ ràng, dẫn tới hoạt động này ngày càng suy giảm ở Việt
Nam. Nhưng đến năm 1998, sau khi Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực,
kèm theo đó nhiều văn bản pháp quy của hoạt động cho vay tiêu dùng được
ban hành, kết quả là cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển rầm rộ trong các
Ngân hàng thương mại Việt Nam. Thời báo Sài Gòn số 31 - 2005 ngày
28/7/2005 đã đưa ra các thông tin về nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam
theo một cuộc điều tra: “tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập trên 3 triệu đồng một
tháng ở khu vực thành thị tại 36 thành phố lớn trong cả nước đã tăng từ 36%
năm 2002 lên 63% năm 2005, mức chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng theo
từ 15,9% vào năm 2002 và đến năm 2005 là 40%”. Như vậy, thời gian tới
hoạt động này được dự báo vẫn còn rất phát triển ở một thị trường đầy tiềm
năng như Việt Nam với dân số hơn 82 triệu người.
1.2.2. Lợi ích của cho vay tiêu dùng
Ngay từ khi ra đời, cho vay tiêu dùng đã góp phần mang lại nguồn thu
lớn cho các Ngân hàng thương mại. Không chỉ dừng lại ở đó, cho vay tiêu
dùng còn đem lại nhiều lợi ích khác cho Ngân hàng, cho khách hàng và cho
cả sự phát triển chung của toàn xã hội.
1.2.2.1. Lợi ích đối với Ngân hàng
Cho vay tiêu dùng là loại hình cấp tín dụng mà nguồn lợi nhuận Ngân
hàng thu được từ nó rất lớn. Bởi vì cho vay tiêu dùng có rủi ro cao hơn so với
các hình thức tín dụng khác, cho nên lãi suất của cho vay tiêu dùng cũng cao
hơn. Hơn thế, hiện nay các cá nhân có nhu cầu vay tiêu dùng càng tăng lên
nên nguồn thu từ hoạt động tín dụng này ngày càng lớn.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Ngoài ra, thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng ngân hàng càng tăng
cường thêm quan hệ với khách hàng có số lượng đông đảo – khách hàng cá
nhân. Khi Ngân hàng tài trợ cho các cá nhân, hộ gia đình thỏa mãn các nhu
cầu chi tiêu khi họ chưa có khả năng thanh toán sẽ giúp Ngân hàng càng ngày
càng tăng cường hình ảnh của mình trong mắt khách hàng, đặc biệt là khách
hàng cá nhân. Qua đây vị trí của Ngân hàng dần dần sẽ được khẳng định trong
tâm trí đông đảo khách hàng. Thêm vào đó, bên cạnh hoạt động cho vay,
Ngân hàng cũng phải tiến hành huy động vốn. Mà nguồn vốn dồi dào, với chi
phí thấp chính là nguồn vốn huy động từ dân cư. Hoạt động cho vay tiêu dùng
sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng hơn trong quá trình huy động tiền gửi từ các đối
tượng khách hàng cá nhân, quan hệ của Ngân hàng với các tổ chức sản xuất,
các doanh nghiệp, các hãng bán lẻ cũng được củng cố và tăng cường. Từ đó,
các dịch vụ khác của Ngân hàng có nhiều cơ hội đến với những khách hàng
này. Vì vậy mà lợi nhuận của Ngân hàng càng được tăng lên.
Hơn nữa, hoạt động cho vay tiêu dùng còn góp phần làm đa dạng danh
mục sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Điều này không chỉ rất cần
thiết trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng như hiện nay
mà còn giúp các Ngân hàng phân tán được rủi ro, mở rộng được thị trường.
Qua đó, Ngân hàng có nhiều cơ hội lựa chọn trong việc sử dụng đồng vốn của
mình, thu nhập được tăng lên. Thêm vào đó, thông qua hoạt động cho vay tiêu
dùng Ngân hàng sẽ giới thiệu cho nhiều khách hàng cá nhân hơn về các sản
phẩm dịch vụ khác mà Ngân hàng có thể cung cấp cho họ.
1.2.2.2. Lợi ích đối với khách hàng
Ngay khi hoạt động cho vay tiêu dùng được hình thành, người tiêu
dùng có thể nói là được lợi nhất do những lợi ích mà hình thức tín dụng này
mang lại. Đúng vậy, nhờ có các khoản vay này mà các cá nhân, hộ gia đình có
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
cơ hội cải thiện và nâng cao đời sống khi mà khả năng tài chính hiện tại chưa
đủ đáp ứng nhu cầu của họ. Quan trọng hơn, các khoản cho vay tiêu dùng có
thể giúp các khách hàng trong những trường hợp chi tiêu cấp bách như viện
phí, chi phí học hành cho bản thân, cho con cái…
Như vậy, nhờ có cho vay tiêu dùng mà khách hàng có thể kết hợp được
khả năng tài chính hiện tại với tương lai, cùng với đó, họ được hưởng cuộc
sống tốt hơn và có điều kiện tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
dịch vụ giáo dục…, để rồi họ có nhiều cơ hội nâng cao trình độ học vấn cũng
như là gia tăng thu nhập…
1.2.2.3. Lợi ích đối với kinh tế - xã hội
Cho vay tiêu dùng ra đời đã góp một phần không nhỏ trong việc thúc
đẩy sản xuất phát triển. Vì ngoài tác động kích cầu làm tăng cầu về hàng hóa,
dịch vụ, thì cho vay tiêu dùng còn hướng tới thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu
cho các cá nhân, hộ gia đình. Như vậy, hàng hóa được tiêu thụ một cách
nhanh chóng, khả năng thanh toán của người tiêu dùng được đảm bảo, không
có lý gì mà nhà sản xuất lại không gia tăng sản lượng. Thêm vào dó, một khi
người lao động có được những điều kiện vật chất tốt sẽ tạo nên tâm lý thoải
mái trong làm việc, trình độ của họ cũng được nâng lên và kết quả là sẽ tạo ra
được nhiều sản phẩm hơn, năng suất sẽ cao hơn. Cho vay tiêu dùng chính là
đòn bẩy kinh tế quan trọng. Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng đã giảm thiểu
được tình trạng vay nặng lãi, làm lành mạnh hóa quan hệ tài chính.
Như chúng ta đã biết, không phải nhu cầu nào cũng đủ khả năng thanh
toán tại thời điểm hiện tại, mà nhiều lúc con người ta còn phải chờ đến 10
năm hay 15 năm hay có thể còn lâu hơn thế mới đủ khả năng thỏa mãn nó.
Cho vay tiêu dùng chính là một giải pháp để thỏa mãn nhu cầu của các cá
nhân tại thời điểm hiện tại. Từ đó, đời sống của các cá nhân, hộ gia đình
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
không chỉ được cải thiện mà còn được nâng cao. Một khi các điều kiện vật
chất lẫn tinh thần của mỗi cá nhân - tế bào của xã hội - tốt hơn, thì xã hội đó
sẽ ngày càng tiến bộ hơn. Mặt khác, nhu cầu của con người là vô tận, nhu cầu
trước được thỏa mãn thì nhu cầu sau sẽ hình thành và còn phát triển cao hơn
nhu cầu cũ. Và khi càng có nhiều nhu cầu con người được thỏa mãn thì xã hội
sẽ càng phát triển theo.
1.2.3. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Qua những phần đã trình bày ở trên chúng ta đã phần nào biết được
rằng: cho vay tiêu dùng chính là một hoạt động tài trợ của Ngân hàng thương
mại. Vì vậy, cũng giống như bao hoạt động tín dụng khác, cho vay tiêu dùng
cũng có những đặc trưng cơ bản như: đối tượng khách hàng, mục đích cho
vay, lãi suất, nguồn trả nợ… Nhưng trong từng đặc điểm này lại có những nét
riêng không giống với những hình thức tín dụng khác.
1.2.3.1. Đặc điểm về đối tượng vay tiêu dùng
Trong cho vay tiêu dùng thì đối tượng chính là các cá nhân và hộ gia
đình. Hầu hết các cá nhân khi tiền hành vay vốn của Ngân hàng để đáp ứng
cho mục đích tiêu dùng đều có thu nhập khá cao và ổn định. Hơn thế, họ còn
mong muốn được chi tiêu vượt quá thu nhập của mình. Đây cũng chính là
những điểm khác biệt so với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp. Đối
với các khách hàng cá nhân, vay vốn của Ngân hàng sẽ giúp họ nhận được
cuộc sống đầy đủ ở hiện tại mà chỉ khả năng thanh toán trong tương lai mới
đáp ứng được. Các cá nhân được đề cập ở đây là những cá nhân có đầy đủ
năng lực pháp lý, thuộc nhiều thành phần khác nhau (công chức Nhà nước,
viên chức trong các đơn vị ngoài quốc doanh, các lao động tự do…) và hơn
hết phải đáp ứng được nhiều điều kiện vay vốn của Ngân hàng.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét