LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Tài liệu TIỂU LUẬN: Vấn đề chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ppt": http://123doc.vn/document/1050011-tai-lieu-tieu-luan-van-de-chat-luong-san-pham-va-quan-ly-chat-luong-trong-cac-doanh-nghiep-viet-nam-hien-nay-ppt.htm
* Công tác đăng ký chất lượng đã phát huy tốt tác dụng ban đầu nhưng do
thiếu thường xuyên cải tiến nên ngày càng kém hiệu quả.
Mặt khác trong điều kiện nền sản xuất lạc hậu, sản xuất không đủ đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng. Vấn đề chính của sản xuất là đáp ứng được số lượng còn
chất lượng chưa được đưa lên hàng đầu.Người sản xuất và người tiêu dùng không có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Người sản xuất không phải chịu trách nhiệm trực tiếp
về những sản phẩm của mình làm ra. Cũng không được hưởng những lợi ích tương
xứng khi làm ra những sản phẩm tốt. Chủ nghĩa bình quân đó đã triệt tiêu động lực
cần thiết để cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm.
3. Thực trạng chất lượng sản phẩm thời kỳ bao cấp.
Tình hình quản lý chất lượng sản phẩm trên dẫn tới kết quả là tình trạng suy
giảm về chất lượng hàng hoá nối lên một cách phổ biến và trầm trọng vào những
năm cuối của thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80. Hàng hoá có giá thành cao. Mặt hàng đơn
điệu, nghèo nàn về chủng loại. Thô kém về hình thức, mẫu mã. Chất lượng lại thường
xuyên biến động. Người tiêu dùng thiếu tin tưởng vào hàng hoá trong nước.Thửc
trạng này là một trong những nguyên làm cho nền kinh tế Việt Nam lâm vào cuộc
khủng hoảng cuối thập kỷ 80. Điều đó đòi hỏi phải có sự đổi mới đúng đắn, toàn
diện về nhận thức và phương pháp tiến hành trong quản lý chất lượng mới có thể đưa
các doanh nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung thoát khỏi khủng hoảng
và phát triển đi lên.
Phần II
Tình hình chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh
nghiệp Việt Nam thời kỳ đổi mới
I. Sự đổi mới và hoàn thiện lý thuyết quản lý chất lượng trong các doanh
nghiệp.
Như phần I đã nói, thực trạng chất lượng sản phẩm và những khiếm khuyết
trong quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ bao cấp là do nhiều
nguyên nhân. Song một nguyên nhân rất quan trọng là do cơ sở lý thuyết về quản lý
chất lượng của chúng ta còn khiếm khuyết lạc hậu. Chính vì vậy, để nâng cao chất
lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trước hết các doanh nghiệp và cơ
quan quản lý Nhà nước về chất lượng phải có được nhận thưc đúng đắn trong vấn đề
chất lượng. Sau đó chúng ta phải đổi mới và xây dựng được cơ sở lý thuyết quản lý
chất lượng khoa học, phù hợp với tình hình chất lượng sản phẩm và trình độ quản lý
chất lượng hiện tại của chúng ta.
Hoạt động quản lý chất lượng đã tồn tại cùng với quá trình sản xuất của con
người từ hàng nghìn năm nay. Song nó chỉ trở thành một hoạt động chức năng nằm
ngoài sản xuất khi nền sản xuất thủ công phát triển mạnh trong các công trường ở
Châu Âu. Quản lý chất lượng trong cac doanh nghiệp dã trải qua các giai đoạn từ
kiểm tra chất lượng rồi kiểm soát bằng thông kê,tới đảm bảo chất lượng, từ quản lý
cục bộ tới quản lý tổng hợp (TQM) và quản lý theo hệ thống (ISO 9000, HACCP).
Quá trình tiếp xúc, du nhập mạnh mẽ các phương thức quản lý chất lượng tiên
tiến của Tây Âu, Mỹ và Nhật Bản, cùng với sự kế thừa những điểm phù hợp trong
quản lý chất lượng thời bao cấp và những kinh nghiệm quý giá rút ra trong 15 năm
tực hiện kinh tế thị trường đã hình thành nên cơ sở lý thuyết toàn diện về quản lý chất
lượng của các doanh nghiệp Việt Nam. Có thể khái quát cơ sở lý thuyết đó như sau:
1. lý thuyết về chất lượng sản phẩm
a. Khái niệm.
Có nhiều quan điểm về chất lượng sản phẩm song có một số quan điểm cơ bản
sau:
- Quan điểm tiếp cận theo sản xuất: Chất lượng sản phẩm là những đặc trưng,
đặc tính kinh tế kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm
đó, đáp ứng những yêu cầu định trước của sản phẩm trong những điều kiện xác định
về kinh tế - xã hội.
- Quan điểm tiếp cận theo người tiêu dùng: Chất lượng sản phẩm là sự phù
hợp với nhu cầu, với mục đích sử dụng của người tiêu dùng.
- Quan điểm của ISO 9002: Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu,
những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong
những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu
dùng mong muốn.
- Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5841 - 1994 phù hợp với ISO/DIS 8402:
Chất lượng là một tập hợp các đặc tính của một thực thể làm cho thực thể đó có khả
năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra và những nhu cầu tiềm ẩn.
b. Vai trò của sản phẩm.
Thực tế kinh doanh trong cơ chế thị trường cho thấy chất lượng sản phẩm có
vai trò ngày càng quan trọng và đang trở thành nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp. Điều đó thể hiện qua các điểm sau:
- Chất lượng sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh và thể hiện sức mạnh
cạnh tranh của doanh nghiệp đó.
- Chất lượng sản phẩm nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường
nhờ đó uy tín của doanh nghiệp được đảm bảo. Đó chính là cơ sở quan trọng để
doanh nghiệp phát triển một cách bền vững và lâu dài.
- Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí
khi doanh nghiệp nâng một tỷ lệ chất lượng sản phẩm lên.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm có thể giúp cho người sử dụng tiết kiệm được
thời gian sức lực trong việc sử dụng vận hành và khai thác sản phẩm. Đây là một giải
pháp quan trọng tạo ra sự thống nhất lợi ích giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng để tăng khả năng xuất
khẩu và khẳng định vị trí của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung
trên thị trường thế giới. Do đó làm tăng khả năng trúng thầu của các doanh nghiệp.
b. Đặc điểm chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế, xã hội, công nghệ tổng hợp luôn
thay đổi theo thời gian và không gian phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện
kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ.
Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của
bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể
hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này
phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm. Mỗi tính chất được
biểu thị bằng các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định cơ thể đo lường, đánh giá được. Vì vậy,
nói đến chất lượng phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể. Đặc
điểm này khẳng định những sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu
không thể đo lường, đánh giá được.
Nói đến chất lượng sản phẩm là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn đến mức
độ nào nhu cầu của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra cho mỗi sản phẩm. ở các nước tư bản qua
phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm qua người ta đi đến kết luận
rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20%
phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả
nghiệm thu cuối cùng.
Chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng.
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi vùng đều có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Một sản
phẩm có thể được xem là tốt ở nơi này nhưng lại là không tốt, không phù hợp với nơi
khác. Trong kinh doanh không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà
căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất
lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng.
Chất lượng sản phẩm thể hiện ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan,
chủ quan hay còn gọi là hai loại chất lượng:
+ Chất lượng trong tuân thủ thiết kế thể hiện ở mức độ sản phẩm đạt được so
với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kinh tế, kỹ
thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng càng cao, được phản ánh thông
qua các chỉ tiêu như tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất
lượng này phản ánh những đặc tính bản chất khách quan của s ản phẩm do đó liên
quan chặt chẽ đếnkhả năng cạnh tranh và chi phí.
+ Chất lượng trong sự phù hợp: Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp
của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù
hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và
sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng vì vậy nó tác động mạnh mẽ đến khả năng
tiêu thụ của sản phẩm.
c. Những nhân tố tác động đến chất lượng sản phẩm.
* Nhóm nhân tố bên ngoài.
- Nhu cầu thị trường.
Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng tạo lực hút định
hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu, tính chất, đặc điểm
và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Chất
lượng sản phẩm có thể được đánh giá cao ở thị trường nay nhưng lại không được
đánh giá cao ở thị trường khác. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng
của công tác nghiên cứu thị trường, phân tích môi trường kinh doanh, xác định chính
xác nhận thức của khách hàng, thói quen tuyền thống, phong tục, tập quán, văn hoá,
lối sống, mục đích sử dụng sản phẩm và khả năng thanh toán nhằm đưa ra những
sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường.
Thông thường khi mức sống xã hội còn thấp, sản phẩm khan hiếm thì yêu cầu
của người tiêu dùng chưa cao, người ta chưa quan tâm tới chất lượng sản phẩm.
Nhưng khi đời sống xã hội được cải thiện thì đòi hỏi về chất lượng snả phẩm sẽ nâng
cao, ngoài tính năng sử dụng còn có cả giá trị thẩm mỹ. Người tiêu dùng có thể chấp
nhận giá cao để có được những sản phẩm ưng ý.
Chính vì vậy, các nhà sản xuất phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng đáp
ứng được nhu cầu thị trường. Lúc đó, việc nâng cao chất lượng sản phẩm mới đi
đúng hướng.
- Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ
Trong thời đại ngày nay không có sự tiến bộ kinh tế, xã hội nào lại không gắn
liền với tiến bộ khoa hoa công nghệ trên thế giới. Bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa
học lần thứ nhất, chủng loại và chất lượng sản phẩm không ngừng thay đổi với tốc độ
tương đối nhanh. Tiến bộ khoa học công nghệ có tác động như một lực đẩy tạo khả
năng đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên. Nhờ khả năng to lớn của tiến
bộ khoa học công nghệ đã sáng chế ra những sản phẩm mới, tạo ra và đưa vào sản
xuất với công nghệ mới có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn, thay thế nguyên liệu
mới tốt hơn và rẻ hơn, hình thành phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản trị tiên
tiến góp phần giảm chi phí đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, rút ngắn chu kỳ
sống sản phẩm, chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Cơ chế quản lý.
Khả năng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp phụ
thuộc rất chặt chẽ vào cơ chế quản lý của mỗi nước. Cơ chế quản lý vừa là môi
trường vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng
cao chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp. Kế hoạch hoá phát triển kinh tế cho
phép xác định trình độ chất lượng và mức độ chất lượng tối ưu, xác định cơ cấu mặt
hàng, xây dựng chiến lược con người trong tổ chức phù hợp với đường lối phát triển
chung.
Hệ thống giá cả cho phép các doanh nghiệp xác định đúng giá trị sản phẩm của
mình, doanh nghiệp có thể xây dựng các chiến lược cạnh tranh và tìm mọi cách nâng
cao chất lượng sản phẩm mà không sợ bị chèn ép về giá.
Chính sách đầu tư quyết định quy mô và hướng phát triển sản xuất. Dựa vào đó
các nhà sản xuất có kế hoạch đầu tư cho công nghệ, huấn luyện đào tạo để nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Chính sách thương mại về chất lượng, tổ chức hệ thống quản lý chất lượng đều
có những vai trò nhất định đối với chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp.
Tóm lại, thông qua cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo điều
kiện kích thích :
- Tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm ở các doanh
nghiệp.
- Hình thành môi trường thuận lợi cho việc huy động công nghệ mới, tiếp thu
ứng dụng những phương pháp quản trị chất lượng hiện đại.
- Sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ sức ỳ và tâm lý ỷ lại, không
ngừng phát huy sáng kiến cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm.
* Nhóm nhân tố bên trong.
- Lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Cho dù trình
độ công nghệ có hiện đại đến đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản
nhất tác động đến chất lượng các hoạt động sản xuất sản phẩm và các hoạt động dịch
vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật,
tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của
mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Sự
thành công hay thất bại của doanh nghiệp trước hết phụ thuộc vào chất lượng của tập
thể những người lao động mà đứng đầu là người lãnh đạo của doanh nghiệp.
Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao trách nhiệm và trình độ
nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh
nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng cao khả năng cạnh tranh về chất
lượng của mỗi quốc gia.
- Khả năng về công nghệ máy móc thiết bị của doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có
tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi
doanh nghiệp phụ thuộc rấta lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu đồng bộ, tình hình bảo
dưỡng duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị công nghệ, đặc
biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng
loạt. Trình độ công nghệ của cãc doanh nghiệp không tách rời trình độ công nghệ
trên thế giới. Muốn sản phẩm có chất lượng đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường
đặc biệt là thị trường quốc tế mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp
cho phép sử dụng những thành tựu khoa học trên thế giới đồng thời khai thác tốt đa
nguồn công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí hợp lý.
- Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của doanh
nghiệp.
Nguyên vật liệu là yếu tố tham gia trực tiếp cấu thành nên sản phẩm. Những đặc
tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, vì vậy chất lượng của nguyên liệu
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng
sản phẩm cao từ những nguyên liệu có chất lượng tồi. Chủng loại, cơ cấu, tính đồng
bộ và chất lượng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc
thiết lập hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở tạo dựng mối quan
hệ lâu dài, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa con người sản xuất và người cung
ứng, đảm bảo khả năng cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác đúng nơi cần thiết.
- Trình độ tổ chức quản trị và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
Trình độ quản trị lnói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất
lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp. Các chuyên gia quản trị chất lượng đồng tình
cho rằng trong thực tế có tới 80% những vấn đề về chất lượng là do quản trị chất
lượng gây ra. Vì vậy, nó đến quản trị chất lượng ngày nay người ta cho rằng trước hết
đó là chất lượng của quản trị.
Các yếu tố của sản xuấta như nguyên liệu, máy móc thiết bị, dây chuyền sản
xuất và người lao động dù ở trình độ nào nhưng nếu không được tổ chức một cách
hợp lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình
sản xuất thì không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Thậm chí trình độ quản lý
tồi còn làm giảm chất lượng sản phẩm, gây lãng phí nguồn lực sản xuất dẫn đến làm
giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trình độ tổ chức quản trị các hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện ở các
phương pháp, cách thức quản trị, thiết lý quản trị, đạo đức kinh doanh, phương pháp
quản lý công nghệ. Mỗi doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt bộ máy quản trị kỹ thuật
và kiểm tra chất lượng, chú trọng tràng bị các phương tiện kiểm tra kỹ thuật giám
định chất lượng sản phẩm. Muốn có chất lượng sản phẩm cao cần theo dõi kiểm tra
toàn bộ quá trình sản xuất, giám sát việc thực hiện các quy trình quy phạm kỹ thuật
để có biện pháp kịp thời khi phát hiện ra các sai sót và xử lý ngay.
Chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị nhận
thức, hiểu biết về chất lượng và trình độ của cán bộ quản trị, khả năng xác định chính
xác các mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình,
kế hoạch chất lượng.
- Văn hoá doanh nghiệp.
Chất lượng là một vấn đề hết sức quan trọng do đó không thể phó mặc cho các
nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp phải coi chất lượng là
vấn đề thuộc trách nhiệm của toàn bộ doanh nghiệp.
2. Khái niệm, nhiệm vụ, chức năng của quản trị chất lượng
a. Khái niệm
Cũng giống như khái niệm về chất lượng sản phẩm, hiện nay có rất nhiều định
nghĩa khác nhau quản trị chất lượng. Tuy nhiên, những định nghĩa này có nhiều điểm
tương đồng và phản ánh được bản chất của quản trị chất lượng.
Quan niệm chung nhất, khá toàn diện và được chấp nhận rộng rãi hiện nay do
Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng thế giới đưa ra như sau: “Quản trị chất lượng là một
tập hợp những hoạt động của chức năng quản trị chung nhằm xác định chính sách
chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng phương tiện như lập kế
hoạch, điều kiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiền chất lượng trong khuôn
khổ một hệ thống chất lượng”.
Có thể hiểu quản trị chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ và tìm
con đường đạt tới, giải quyết nó một cách có hiệu quả nhất. Mục tiêu của quản trị
chất lượng trong các doanh nghiệp là đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu
cầu và chi phí tối ưu. Đó chính là sự kết hợp giữa nâng cao những đặc tính kinh tế,
kỹ thuật hữu ích của sản phẩm đồng thời giảm lãng phí và khai thác mọi tiềm năng để
mở rộng thị trường.
b. Bản chất
Thực chất của quản trị chất lượng là một tập hợp các hoạt động của chức năng
quản trị như hoạch định, tổ chức, kiểm và soát điều chỉnh. Đó là một hoạt động tổng
hợp về kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Chỉ khi nào toàn bộ các yếu tố kinh tế, xã hội,
công nghệ và tổ chức được xem xét đầy đủ trong mối quan hệ thống nhất rằng buộc
với nhau trong hệ thống chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm sẽ
được đảm bảo.
Quản trị chất lượng phải được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định bao
gồm hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kinh tế kỹ thuật biểu thị mức độ
thoả mãn về nhu cầu thị trượng, một hệ thống tổ chức điều kiển về hệ thống chính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét