LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Tài liệu Nghiên cứu thiết kế, chế tạo lò nung gốm sứ tiết kiệm năng lượng sử dụng khí hóa lỏng dung tích 18 m3 pptx": http://123doc.vn/document/1052997-tai-lieu-nghien-cuu-thiet-ke-che-tao-lo-nung-gom-su-tiet-kiem-nang-luong-su-dung-khi-hoa-long-dung-tich-18-m3-pptx.htm
Đặc điểm nổi bật nhất trong suốt thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX của
ngành công nghệ vật liệu Silicat Việt Nam trong đó có ngành gốm sứ là sự phát
triển mạnh mẽ theo chiều hớng hội nhập Quốc tế dẫn tới những thành công làm
thay đổi hẳn diện mạo của một linh vực sản xuất xa nay vẫn gắn liền với những
khái niệm thủ công, thô sơ, nặng nhọc. Một trong những minh hoạ sinh động và
thuyết phục của cuộc đổi thay mang ý nghĩa cách mạng ấy là sự xuất hiện các lò
nung gốm tiết kiệm năng lợng sử dụng bông gốm chịu lửa làm vật liệu xây lò và
khí hoá lỏng (LPG) làm nhiên liệu. Lò nung gốm tiết kiệm năng lợng đã trở
thành một biểu trng của việc chuyển giao áp dụng công nghệ mới tại các trung
tâm sản xuất đồ gốm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam : Làng nghề Bát Tràng,
đặc khu truyền thống Đồng Nai, Bình Dơng
Tổng Công ty Sánh sứ Thuỷ tinh Công nghiệp (Vinaceglass) rất tự hào vì
đã có những đóng góp mang tính quyết định trong việc đem lò nung gốm thiết
kiệm năng lợng, một thành tựu công nghệ của tổ chức hợp tác khoa học kỹ thuật
GTZ CHLB Đức vào cho ngành Gốm sứ Việt Nam. Thành công của quá trình
tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới này đã đợc đánh giá cao ở những định
hớng chiến lợc phát triển bền vững của Việt Nam. Đó là thành công của định
hớng quốc gia về chơng trình tiết kiệm năng lợng. Đó là thành công của định
hớng quốc gia về chơng trình chống ô nhiễm, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi
trờng. Đó là thành công của định hớng quốc gia Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
làm thay đổi về chất những ngành sản xuất vốn dĩ thủ công, lạc hậu.
Đợc cổ vũ bởi sự thành công của việc chuyển giao công nghệ chế tạo lò
nung gốm tiết kiệm năng lợng dung tích 5 m
3
Vinaceglass đã đăng ký đề tài
nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nớc Nghiên cứu thiết kế chế tạo lò nung
gốm sứ tiết kiệm năng lợng sử dụng khí hoá lỏng dung tích 18 m
3
.
ý nghĩa chiến lợc của đề tài nghiên cứu khoa học này là ở chỗ
Vinaceglass quyết tâm phát huy sức mạnh nội lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật,
phát huy tri thức và kinh nghiệm tích luỹ đợc từ quá trình tiếp nhận công nghệ
của GTZ, phát huy lợi thế sản xuất và kinh doanh của các Công ty thành viên
nhằm tập trung giải quyết bài toán mang nội dung khoa học công nghệ : mở rộng
quy mô thiết bị công nghệ để tiến tới làm chủ hoàn toàn công nghệ thiết kế chế
tạo lò nung gốm tiết kiệm năng lợng dung tích lớn hơn, hiệu quả lớn hơn, trang
bị hiện đại hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các lò nung tiết kiệm
năng lợng.
Nhận thức đợc ý nghĩa thực tiễn và giá trị khoa học của đề tài
Vinaceglass đã đầu t ở mức cao nhất cho việc hoàn thành đề tài đã đăng ký. Báo
cáo tổng kết này trình bày những kết quả đã đạt đợc trong khuôn khổ thực hiện
các nội dung đã đặt ra. Trong quá trình phấn đấu thực hiện đề tài Vinaceglass đã
nhận đợc rất nhiều sự giúp đỡ, sự đóng góp quý giá của tất nhiều tổ chức và cá
nhân ở các cấp quản lý và chuyên môn. Vinaceglass xin trân trọng cảm ơn : Bộ
Khoa học Công nghệ và Môi trờng, Bộ Công nghiệp, Tổ chức hợp tác khoa học
kỹ thuật GTZ CHLB Đức, các nhà Khoa học, các Doanh nghiệp Đã chỉ đạo và
cùng tham gia thực hiện đề tài.
Vinaceglass cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành trớc những ý kiến
chỉ dẫn, đánh giá những mặt còn khiếm khuyết trong việc thực hiện đề tài và xin
đợc tiếp tục hoàn thiện mình trong quá trình xây dựng phát triển tiềm lực,
nghiên cứu khoa học của một doanh nghiệp Nhà nớc thuộc chuyên ngành công
nghiệp vật liệu Silicat.
Chơng I
Tổng Quan
I- Tình hình sản xuất và sử dụng lò nung của ngành sản
xuất gốm sứ Việt Nam :
Ngành sản xuất gốm sứ Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào sản xuất
các sản phẩm chính nh : Các loại gạch ốp lát, sứ vệ sinh, sứ dân dụng cao cấp,
sứ cách điện và gốm sứ Mỹ nghệ.
Tình hình sản xuất, công nghệ và thiết bị sản xuất trong đó có lò nung của
mối đối tợng sản phẩm có những đặc điểm và bớc phát triển khác nhau.
1- Đối với ngành sản xuất gạch ốp lát (bao gồm các loại gạch ốp tờng, lát
nền, gạch trang trí và giả granit) : Đây là các sản phẩm dùng cho ngành xây dựng
nên nhu cầu thị trờng rất lớn. Trong những năm qua, ngành sản xuất gạch ốp lát
đã phát triển vợt bậc với tốc độ nhanh nhất trong các ngành sản xuất gốm sứ ở
Việt Nam. Tính đến cuối năm 2000, cả nớc đã có 30 nhà máy sản xuất gạch ốp
lát với tổng công suất thiết kế hơn 70 triệu m
2
, đã sản xuất đợc 50 triệu m
2
(tăng
gấp 250 lần so với năm 1992 và 1,5 lần so với năm 1999).
Hiện nay đang có thêm một số dự án mới đang triển khai và dự kiến sẽ
nâng tổng công suất thiết kế lên hơn 100 triệu m
2
vào năm 2002.
Công nghệ và dây chuyền thiết bị của các nhà máy sản xuất gạch ốp lát
trong nớc thuộc loại hiện đại và tiên tiến nhất của thế giới hiện nay và hoàn toàn
đợc nhập về chủ yếu từ các nớc công nghệip phát triển nh Đức, Italia, Tây
Ban Nha lò nung sử dụng trong sản xuất gạch ốp lát thuộc loại lò tuy nen
chuyển tải sản phẩm nung bằng hệ thống con lăn. Lò vận hành hoàn toàn tự
động, đốt bằng gas hoá lỏng là chủ yếu, thời gian nung tính từ lúc sản phẩm vào
đến khi ra lò rất nhanh chỉ khoảng 45 50 phút ở nhiệt độ vùng cao nhất 1160
1180
o
C, công suất nung mỗi lò đợc thiết kế theo yêu cầu nhng thấp nhất cũng
phải 1 triệu m
2
gạch/năm.
2- Đối với ngành sản xuất sứ vệ sinh (bao gồm các loại chậu rửa, bàn cầu,
bồn tắm) : sau ngành sản xuất gạch ốp lát, ngành sản xuất sứ vệ sinh trong những
năm qua cũng phát triển mạnh mẽ đủ để đáp ứng nhu cầu về xây dựng trong cả
nớc. Tính đến năm 2000, nớc ta có 7 nhà máy sản xuất sứ vệ sinh với tổng
công suất thiết kế 2,2 triệu sản phẩm/năm (tăng gấp 50 lần so với năm 1992).
Đến năm 2002, sẽ đầu t thêm 3 nhà máy mới, nâng tổng công suất lên 3,15 triệu
sản phẩm/năm.
Thiết bị lò nung đang sử dụng trong các nhà máy sản xuất sứ vệ sinh cũng
thuộc loại tiên tiến nhất hiện nay và cũng hoàn toàn chủ yếu nhập về từ các nớc
công nghiệp phát triển nh Anh, Pháp, Italia Đây là loại lò tuy nên chuyển tải
sản phẩm nung bằng hệ thống xe goòng. Lò vận hành tự động hoàn toàn, đốt
bằng gas hoá lỏng, thời gian nung sản phẩm từ 15-16 giờ ở nhiệt độ vùng cao
nhất 1.220
o
C 1.230
o
C. Công suất nung mỗi lò tuỳ thuộc vào yêu cầu, nhng
thông thờng khoảng 300.000 400.000 sản phẩm/năm.
3- Đối với ngành sản xuất sứ dân dụng cao cấp (bao gồm các loại ấm,
chén, bát, tô, đĩa sử dụng trong ăn uống và sinh hoạt) : Các sản phẩm sứ dân
dụng cao cấp ở nớc ta hiện nay đợc sản xuất chủ yếu từ 2 cơ sở : Công ty Sứ
Hải Dơng (phía Bắc) và Công ty Gốm sứ Minh Long I (phía Nam).
Ngoài ra, cũng có một số cơ sở sản xuất ở Bát Tràng, Quảng Ninh (phía
Bắc) và Đồng Nai, Bình Dơng (phía Nam), cũng sản xuất đồ sứ dân dụng,
nhng quy mô sản xuất và chất lợng thấp hơn so với 2 cơ sở trên. Tổng công
suất của 2 cơ sở này khoảng 3.500 tấn sản phẩm, tơng đơng với khoảng 20
triệu sản phẩm các loại/năm. Cuối năm 2001, Công ty Sứ Hải Dơng sẽ đa thêm
1 chiếc lò tuy nen mới (chế tạo theo công nghệ của CHLB Đức) vào hoạt động,
khi đó tổng công suất sản xuất sứ dân dụng của cả nớc sẽ đợc nâng lên 5.700
tấn, tơng đơng với hơn 30 triệu sản phẩm/năm. Lò nung sử dụng trong các nhà
máy sản xuất sứ dân dụng hiện nay cũng chủ yếu phải mua hoàn toàn hoặc từng
phần của các nớc công nghiệp phát triển nh Đức, Italia, Nhật Đây là loại lò
tuy nen chuyển tải sản phẩm nung bằng hệ thống xe goòng. Lò vận hành hoàn
toàn tự động, đốt bằng gas hoá lỏng, thời gian nung kéo dài khoảng 26-30 giờ với
nhiệt độ nung ở vùng cao nhất khoảng 1.320 1.360
o
C. Công suất nung của lò
tuỳ theo yêu cầu nhng thờng thiết kế ở khoảng 1.000 2.000 tấn, tơng đơng
với 5 triệu 10 triệu sản phẩm/năm.
4- Đối với ngành sản xuất sứ cách điện (bao gồm các loại sứ đỡ đờng
dây, sứ biến thế, và các sản phẩm dùng trong lới điện sinh hoạt cho điện thế chủ
yếu từ 6 35 KV): Hiện nay, cả nớc có 3 cơ sở chính sản xuất các loại sứ cách
điện là Công ty Sứ Hoàng Liên Sơn , Công ty Sứ Hải Dơng (phía Bắc) và Công
ty Sứ cách điện Minh Long II (phía Nam) với tổng công suất khoảng 4.500 tấn
sản phẩm/năm, tơng ứng với khoảng 2 triệu sản phẩm các loại/năm. Loại lò
nung sử dụng trong các nhà máy hiện nay chủ yếu là loại lò con thoi nhập của
Đài Loan, Đức, hoặc tự chế tạo trong nớc với dung tích khoảng từ 10-40 m
3
, đốt
bằng gas hoá lỏng hoặc gas tự nhiên ở nhiệt độ nung lúc cao nhất khoảng 1.300
1.350
o
C. Hiện nay, Công ty Sứ Hoàng Liên Sơn đang đứng đầu cả nớc về năng
lực sản xuất sứ cách điện với công suất khoảng 2.500 tấn sản phẩm/năm, do vừa
đầu t mới thêm một lò dung tích khoảng 40 m
3
của CHLB Đức với giá gần 1
triệu Đô la Mỹ. Đây là loại lò con thoi, nung gián đoạn và vận hành hoàn toàn tự
đọng.
5- Đối với ngành sản xuất gốm sứ mỹ nghệ : khác với các ngành sản xuất
gốm sứ kể trên, ngành sản xuất gốm sứ mỹ nghệ đã có từ lâu đời và các cơ sở sản
xuất gốm sứ mỹ nghệ chủ yếu tập trung ở các làng nghề và địa phơng có nghề
sản xuất gốm sứ truyền thống khắp cả nớc.
ở khu vực miền Bắc hiện nay, các cơ sở sản xuất gốm sứ mỹ nghệ tập
trung chủ yếu ở vùng Quảng Ninh, Thái Bình, làng Cậy (Hải Hng) và làng Bát
Tràng (Hà Nội). Do lợi thế sẵn có nguồn nguyên vật liệu phong phú nên sản
phẩm gốm sứ ở phía Bắc có thể đợc sản xuất ở dạng cao cấp hơn đó là đồ bán sứ
hoặc sứ với nhiệt độ nung khoảng từ 1.250
o
C 1.320
o
C. Sản phẩm gốm sứ mỹ
nghệ ở phía Bắc rất đa dạng ở các loại đồ dân dụng nh ấm, chén, ly, bát, đĩa ,
các loại bình hoa, chậu hoa, l hơng, đồ lu niệm, sản phẩm trang trí, tợng,
thú Các sản phẩm này một phần đã bán trong nớc, còn lại chủ yếu là xuất
khẩu sang các nớc nh Pháp, Hà Lan, úc, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc Nhng
do công nghệ và thiết bị sản xuất đặc biệt là vấn đề lò nung ở các cơ sở sản xuất
gốm sứ mỹ nghệ phía Bắc còn rất thủ công lạc hậu, nên năng lực sản xuất thấp,
chất lợng sản phẩm cha cao và không ổn định đã làm giảm khả năng cạnh
tranh so với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc và một số nớc trong khu vực.
Chính vì vậy, doanh số xuất khẩu của các doanh nghiệp sản xuất phía Bắc vẫn
còn thấp chỉ đạt khoảng 30 triệu Đô la/năm trong tổng số 100 triệu Đô la/năm
của cả nớc. Trong đó, Bát Tràng là khu vực sản xuất mạnh nhất chiếm đến 90
thị phần xuất khẩu của cả khu vực phía Bắc.
Bát Tràng là một xã thuộc huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Hiện nay ở
Bát Tràng có khoảng 1.600 hộ gia đình với tổng số dân khoảng 6.300 ngời và
trong đó có khoảng 1.000 hộ tham gia trực tiếp sản xuất gốm sứ. Loại lò nung
đang đợc sử dụng phổ biến nhất ở Bát Tràng hiện nay là lò hộp hay còn gọi là lò
đứng. Loại lò này đợc bắt đầu sử dụng từ năm 1964, trớc đây đốt củi này
chuyển sang đốt than. Kích thớc loại lò này phổ biến hiện nay là : Chiều cao
1,5m, chiều sâu 1,3m và chiều cao 5-6 m. Tính đến nay, Bát Tràng vẫn còn
khoảng gần 1.000 chiếc và hàng ngày có khoảng 100 chiếc ở trạng thái hoạt
động. Thời gian đốt một mẻ lò tính từ lúc xếp đến khi dỡ sản phẩm phải kéo dài
4-5 ngày. Điều đặc biệt đáng nói đến ở đây là lợng chất thải rắn và khí thải do
đốt bằng than của lò nộp rất lớn gây ảnh hởng lâu dài đến sức khoẻ con ngời
và môi trờng xung quanh. Hơn nữa, với kích thớc kể trên, dung tích mỗi chiếc
lò hộp khoảng 10-12m
3
. Sau khi trừ phần dung tích dành cho phần bao nung, thì
phần dung tích hữu ích chứa sản phẩm cần nung chỉ còn lại 5-6 m
3
(xếp đợc
khoảng 120 150 bộ chậu 3 cái) và hiệu suất thu hồi sản phẩm sau khi nung chỉ
đạt khoảng 60-70%. Với hiệu quả nung thấp nh vậy, công suất nung của mỗi
chiếc lò hộp cũng chỉ tơng đơng với 1 chiếc lò đốt bằng gas dung tích 3-3,5
m
3
, nhng lại kém loại lò dùng gas ở rất nhiều điểm nh : chất lợng và độ ổn
định sản phẩm thấp hơn, thời gian nung và nhân công tốn hơn và đặc biệt là gây
ô nhiễm môi trờng khá nghiêm trọng.
Do nhìn nhận ra nhiều lợi thế khi sử dụng lò đốt bằng gas, nên từ năm
1997 đã có một số cơ sở sản xuất ở Bát Tràng đứng ra nhập của Đài Loan loại lò
nung gốm sứ đốt bằng gas hoá lỏng LPG, dung tích 4 m
3
, xây bằng gạch chịu
lửa. Chất lợng sản phẩm đã đợc nâng cao, nhng do giá nhập loại lò này quá
cao và đặc biệt là do sử dụng loại gạch chịu lửa làm vật liệu bảo ôn nên tiêu hao
nhiên liệu lớn ảnh hởng đến giá thành sản phẩm, do đó việc sử dụng rộng rãi
loại lò này cha phù hợp với khả năng đầu t của các cơ sở sản xuất. Phải đến
tháng 9/1999, sau thành công tốt đẹp của chơng trình chuyển giao công nghệ
chế tạo loại lò nung gốm sứ kiểu mới do tổ chức hợp tác khoa học kỹ thuật GTZ
CHLB Đức chuyển giao cho phía Việt Nam, thì số lợng sử dụng lò nung đốt
bằng gas ở các cơ sở sản xuất phia Bắc đã tăng lên nhanh chóng. Do đợc sản
xuất trong nớc và đặc biệt là do sử dụng loại vật liệu mới là bông gốm chịu
nhiệt để làm thành lò, nên kiều lò mới này tiết kiệm đợc nhiên liệu đốt khoảng
30% - 50%, thời gian đốt khoảng 2-3 giờ và giá đầu t thấp hơn nhiều so với loại
lò xây bằng gạch chịu lửa.
Tính đến tháng 6/2000, số lợng lò gas đang sử dụng ở các cơ sở sản xuất
gốm sữ mỹ nghệ phía Bắc nh sau :
+ ở Quảng Ninh : Có 2 chiếc lò dung tích 2 m
3
xây bằng gạch chịu lửa.
+ ở Thái Bình : Công ty sứ Thái Bình có một chiếc lò 2 m
3
xây bằng gạch
chịu lửa nhng mặt tiếp xúc lửa lót bằng bông gốm và một chiếc 5,5m
3
xây lắp
bằng bông gốm hoàn toàn.
+ ở Bát Tràng : có khoảng gần 50 chiếc, chủ yếu làm bằng bông gốm:
- Loại 1 1,2 m
3
: 25 cái
- Loại 2 2,5 m
3
: 5-7 cái
- Loại 4 m
3
: 8-10 cái
- Loại 8 m
3
: 2 cái
- Loại 10 m
3
: 2 cái
Trong số đó có 2 chiếc lò loại 10 m
3
do Công ty XNK Sành sứ Thuỷ tinh
Việt Nam chúng tôi lắp cho Công ty TNHH Vĩnh Thắng và đây là loại lò tiết
kiệm năng lợng sử dụng bông gốm do Công ty chúng tôi cùng hợp tác với
chuyên gia Đức nghiên cứu chế tạo thành công vào tháng 8/1999.
Vì các đặc thù nh mặt bằng sản xuất hạn chế, kích cỡ sản phẩm không
lớn, giá bán lại cao, đặc biệt để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, giữ xanh, giữ sách
cho một số làng nghề truyền thống nổi tiếng từ lâu đời, các cơ sở sản xuất gồm
sứ mỹ nghệ ở miền Bắc nói chung nhất là ở Bát Tràng, cần chuyển đổi sang sử
dụng các loại lò nung gốm sứ tiết kiệm năng lợng đốt lò bằng gas hoá lỏng thay
thế dần các loại lò thủ công là hiệu quả và hợp lý nhất.
ở khu vực miền Trung, ngành sản xuất gốm sứ mỹ nghệ phát triển không
mạnh, hiện nay có một số cơ sở nhỏ tập trung ở Huế, Tuy Hoà (Phú Yên) và Đà
Nẵng chỉ sản xuất các sản phẩm nh : chậu hoa, lu, vại phục vụ cho địa phơng
hoặc các vùng lân cận. Hiện nay ở miền Trung có 2 cơ sở duy nhất có lò nung
đốt bằng gas hoá lỏng LPG, đó là cơ sở sản xuất bột Diatomit ở Tuy Hoà (Phú
Yên) có đầu t 1 chiếc lò gas dung dịch 4 m
3
xây bằng gạch vào năm 1998 và
Công ty xây lắp Thừa Thiên Huế đầu t 1 chiếc lò gas dung tích 5,5 m
3
vào năm
2000, sử dụng để sản xuất gạch ngói phục vụ trong xây dựng và trùng tu một số
công trình kiến trúc cổ ở cố đô Huế. Cả 2 chiếc lò này đều do Công ty XNK Sành
sứ Thuỷ tinh Việt Nam chúng tôi xây lắp.
ở khu vực phía Nam, các cơ sở sản xuất gồm sứ mỹ nghệ chủ yếu tập
trung ở vùng Đồng Nai, Bình Dơng, Vĩnh Long. Do đặc thù của nguồn nguyên
liệu sẵn có, nên sản phẩm gốm sứ phía Nam chủ yếu đợc sản xuất ở dạng gốm
với nhiệt độ nung thấp khoảng 1.150 1.180
o
C (ở Đồng Nai Bình Dơng) và
xơng đất đỏ terracotta với nhiệt độ khoảng 950-1.000
o
C (ở Vĩnh Long).
Sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ ở phía Nam rất phong phú, đa dạng, nhng thế
mạnh chủ yếu tập trung ở sản xuất các sản phẩm vừa và lớn, sử dụng bên ngoài
nhà nh : các loại chậu trồng hoa, cây cảnh, các loại sản phẩm sử dụng và trang
trí ngoài vờn, các loại tợng thú và chủ yếu đợc xuất khẩu trên khắp các
nớc trên thế giới. Có thể nói, Đồng Nai và Bình Dơng hiện nay có 2 vùng trọng
điểm sản xuất các sản phẩm gốm sứ nói chung và sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ nói
riêng lớn nhất cả nớc. Doanh số xuất khẩu các sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ trung
bình trong những năm qua của Đồng Nai, Bình Dơng đạt khoảng 70 triệu USD
chiếm 2/3 tổng doanh số xuất khẩu cả nớc. Hiện nay ở Đồng Nai, Bình Dơng
có khoảng 300 cơ sở có đăng ký sản xuất gốm sứ (Đồng Nai có hơn 100 cơ sở,
Bình Dơng có hơn 200 cơ sở) và thu hút hơn 100 nghìn nhân công lao động. Kỹ
thuật và thiết bị sản xuất gốm sứ ở đây rất đơn giản vẫn chủ yếu là thủ công, đặc
biệt là ở khâu trang trí sản phẩm. Nhng do đặc thù về chất liêụ và đối tợng sản
phẩm ít bị cạnh tranh hơn từ các nớc khác trong khu vực, đặc biệt do sự năng
động hơn trong đầu t, sản xuất và kinh doanh, nên các doanh nghiệp sản xuất
gốm sứ công nghệ ở miền Nam vẫn làm ăn ổn định và khấm khá hơn vó với các
doanh nghiệp khác ở miền Bắc và miền Trung.
Lò nung thủ công đang đợc sử dụng phổ biến ở Đồng Nai, Bình Dơng
hiện nay vẫn là 2 loại lò ống (lò rỗng) và lò bao. Lò ống thờng có kích thớc,
chiều cao 2m, chiều rộng 2 2,5 m và chiều dài tuỳ theo yêu cầu yêu cầu nhng
thờng từ 25-50m. Lò bao có kích thớc : chiều cao 2m, rộng 4-4,5m dài 2,5-3m
mỗi bao và số lợng bao tuỳ theo yêu cầu có thể từ 10-20 bao. Cả 2 loại lò này
đều đốt bằng củi, nhiều nhất là cây cao su. tuỳ thuộc vào dung tích lò và số lợng
sản phẩm nung, số lợng củi sẽ tiêu thụ khác nhau, nhng thờng để đốt đợc số
lợng sản phẩm khoảng 2.500 bộ chậu 3 cái (chậu sẹc 3) đủ để chất một
container 40 feet trong một chiếc lò ống hoặc lò bao phải tiêu tốn khoảng 35 m
3
củi khô. Thời gian đốt thờng kéo dài 4-5 ngày. Chất lợng sản phẩm không cao,
không ổn định, hiệu suất thu hồi sản phẩm chỉ đạt khoảng 70% do lửa phân bố
không đều và không kiểm soát đợc môi trờng nung. Đặc biệt việc sử dụng loại
lò đốt củi này gây nhiều khói bụi ô nhiễm cho môi trờng xung quanh và vô tình
tiếp tay cho những hành vi phá hoại rừng. Tuy nhiên, loại lò này hiện nay vẫn
đợc sử dụng phổ biến vì chi phí đầu t thấp và phù hợp để nung các sản phẩm
có kích thớc lớn hoặc các sản phẩm cần số lợng lớn mà không đòi hỏi chất
lợng cao để giảm giá thành.
Từ năm 1994, có một số cơ sở vùng Bình Dơng đã nhập từ Đài Loan
những chiếc lò gas dung tích 2 m
3
xây bằng gạch chịu lửa. Do những u việt của
lò gas, nên từ đó đến giữa năm 1999, nhiều cơ sở sản xuất gốm sứ ở cả Đồng Nai
và Bình Dơng đã chuyển sang sử dụng lò gas với dung tích phổ biến là loại 4 m
3
và 8 m
3
theo thiết kế Đài Loan đợc nhập hoặc tự xây bằng gạch xốp chịu lửa và
đã nâng số lợng lò gas lên khoảng 70 chiếc. Nhng từ tháng 9/1999, sau chơng
trình chuyển giao công nghệ chế tạo loại lò sử dụng bông gốm tiết kiệm năng
lợng của CHLB Đức, số lợng lò sử dụng gas đã tăng lên nhanh chóng đến hơn
100 chiếc (tính đến tháng 4/2000) và số lợng 40 chiếc lò mới nung đều hoàn
toàn lót bằng bông gốm. Trong đó Công ty XNK Sành sứ Thuỷ tinh Việt Nam
cung cấp khoảng 30 chiếc lò có dung tích 5,5 m
3
và 10 m
3
.
Sau một thời gian sử dụng và đánh giá hiệu quả kinh tế, hầu hết các cơ sở
sản xuất gốm sứ mỹ nghệ ở phía Nam đều đi đến nhận định : Do nhiệt độ nung
của sản phẩm không cao, nên loại lò gas sử dụng bông gốm đạt hiệu quả cao hơn
cả vì tiết kiệm đợc 30% - 50% và thời gian nung so với loại lò lót bằng gạch.
Ngoài ra lò gas chỉ sử dụng có hiệu quả kinh tế khi nung các sản phẩm có kích
thớc nhỏ và vừa, ví dụ đối với sản phẩm chịu lửa đờng kính không nên quá
50cm, chiều cao không nên quá 35cm. Nhìn vào đối tợng và số lợng các sản
phẩm đang xuất khẩu từ các cơ sở sản xuất Đồng Nai, Bình Dơng hiện nay,
chúng ta thấy số lợng loại sản phẩm có kích thớc nhỏ và vừa rất lớn khoảng
80%. Do đó, nhu cầu sử dụng lò gas để nung các sản phẩm có kích thớc vừa và
nhỏ với số lợng lớn vẫn còn rất lớn.
Tóm lại, qua việc khảo sát về tình hình sản xuất và sử dụng lò nung của
ngành sản xuất gốm sứ Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng : ngành sản xuất gốm
sứ mỹ nghệ là cần phải đợc u tiên đặc biệt trong công tác đầu t nghiên cứu và
phát triển công nghệ bởi vì :
- Đây là ngành có công nghệ chế tạo thiết bị đặc biệt là thiết bị lò nung.
- Thứ hai, đây là ngành có số lợng sản phẩm và doanh số xuất khẩu lớn
nhất trong các ngành sản xuất gốm sứ.
- Thứ ba, đây là ngành sản xuất các sản phẩm mang tính truyền thống và
thu hút nhiều lao động nhất so với các sản phẩm khác.
II- Tình hình nghiên cứu chế tạo lò nung gốm sứ trong
và ngoài nớc:
1- Tình hình nghiên cứu ngoài nớc :
Từ năm 1950, các loại lò nung gốm sứ toàn thế giới đều đợc xây bằng lò
gạch chịu lửa có trọng lợng rất nặng. Loại gạch này, làm tiêu hao rất nhiều năng
lợng do tính nhiệt lớn và bảo ôn kém.
Tiếp theo đó là cuộc cách mạng mới trong vấn đề xây dựng lò khi xuất
hiện loại gạch xốp chịu lửa mới có đặc tính làm giảm khả năng tích nhiệt, tăng
khả năng bảo ôn, do đó góp phần đáng kể vào việc giảm sự tiêu hao nhiên liệu và
chi phí khi nung.
Đến năm 1970, với sự xuất hiện loại vật chịu lửa mới là bông gốm việc
ứng dụng chúng để bảo ôn các loại lò nung đã góp phần làm giảm tiêu hao năng
lợng xuống chỉ còn khoảng 40-50% so với các loại vật liệu chịu lửa truyền
thống trớc kia.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các loại vật liệu chịu lửa mới,
công nghệ chế tạo các loại lò nung gốm sứ cũng đợc các nớc công nghiệp phát
triển nh Đức, Anh, Italia, Pháp, Mỹ đã đợc nghiên cứu và hoàn thiện từ năm
1970 1980. Loại lò nung gốm sứ đợc chế tạo từ các nớc công nghiệp phát
triển hiện nay rất phong phú về chủng loại, hội đủ các u điểm cần thiết, song giá
thành còn quá cao nên cha phù hợp với khả năng đầu t, điều kiện sản xuất và
trình độ của các doanh nghiệp sản xuất gốm sứ vừa và nhỏ ở Việt Nam.
ở các nớc đang phát triển, công nghệ sản xuất lò nung gốm sứ đốt gas
nói chung và loại lò sử dụng bông gốm nói riêng bắt đầu phát triển từ đầu những
năm 1990.
- Đài Loan và Hàn Quốc là một trong những nớc đi đầu trong việc chế
tạo loại lò xây bằng gạch xốp chịu lửa. Phải đến năm 1993-1994, loại lò bông
gốm mới bắt đầu đợc chế tạo ở Đài Loan và Hàn Quốc.
- Năm 1989, lần đầu tiên ở Châu á, tổ chức hợp tác khoa học kỹ thuật
GTZ của CHLB Đức đã chuyển giao công nghệ chế tạo chiếc lò gas sử dụng
bông gốm dung tích 2,5 m
3
cho Philippin. Sau đó, ở Philippin ngời ta đã tiếp tục
nghiên cứu chế tạo loại lò có dung tích lớn hơn là 7,5 m
3
và đến 1998, họ đã chế
tạo loại lò có dung tích 20 m
3
nhng chỉ phù hợp để nung các sản phẩm đất đỏ ở
nhiệt độ cao nhất 1.000
o
C mà thôi.
- Năm 1991, tổ chức hợp tác kinh nghiệm kỹ thuật GTZ CHLB Đức lại
tiếp tục chuyển giao công nghệ chế tạo chiếc lò 2,5 m
3
giống ở Philippin cho phía
Thái Lan. Từ 1992 1995, ở Thái Lan ngời ta đã nghiên cứu chế tạo nâng dung
tích lò nung lên 5,5 m
3
. Đến 1997, các nhà nghiên cứu của Trờng ĐHTH
Chiang Mai đã chế tạo thành công chiếc lò 13 m
3
làm việc ở nhiệt độ cao 1.340
o
C. Nh vậy đến tháng 6/1999 Việt Nam là nớc thứ ba đã đợc tổ chức GTZ
chuyển giao công nghệ chế tạo loại lò bông gốm theo thiết kế của Đức. Tuy
nhiên, có thể do nhu cầu thị trờng, nên cha thấy các nớc trong khu vực tiếp
tục nghiên cứu loại lò có dung tích lớn hơn và nung ở nhiệt độ cao hơn.
2- Tình hình nghiên cứu trong nớc :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét