Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam": http://123doc.vn/document/1051199-mot-so-van-de-phap-ly-ve-hop-dong-cho-thue-tai-chinh-o-viet-nam.htm


ở Việt Nam, khái niệm cho thuê tài chính lần đầu tiên đợc đề cập trong
Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ban
hành theo Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ (sau đây gọi là
Nghị định 64). Trong một số văn bản pháp lý trớc đây, còn có thêm thuật ngữ
"Tín dụng thuê mua" (Thí dụ, tại Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nớc số 149/QĐ - NH 5 ngày 27/5/1995 về việc ban hành Thể lệ Tín dụng Thuê
mua (sau đây gọi là Quyết định số 149). "Tín dụng thuê mua" đợc định nghĩa
là: :hoạt động thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản
xuất kinh doanh đợc các tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê".
Bên thuê thanh toán tiền thuê cho tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã
đợc hai bên thoả thuận và không đợc huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên
thuê đợc quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc đợc mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục
thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê
mua". Xét về bản chất, tín dụng thuê mua cũng nh cho thuê tài chính.
Luật các Tổ chức Tín dụng đợc Quốc hội Khoá X, Kỳ họp thứ 2 thông
qua ngày 12/12/1997 (sau đây gọi là Luật Các Tổ chức Tín dụng) đã chính
thức quy định về cho thuê tài chính tại Khoản 11 Điều 20 nh sau: "cho thuê tài
chính là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê
tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc
thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều
kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong thời hạn thuê, các bên không đợc
đơn phơng huỷ hợp đồng".
Nghị định 64 gần đây đã bị thay thế bởi Nghị định 16 của Chính phủ
ngày 2/5/2001 quy định về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài
chính (sau đây gọi là Nghị định 16). Tuy nhiên, trong bài Khoá luận này, ngời
viết vẫn đề cập tới các quy định của Nghị định 64 trên cơ sở so sánh với Nghị
định 16. Điều 1 Nghị định 16 quy định:
"1. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phơng tiện vận chuyển và các động sản khác. Bên
cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê
và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã đợc hai bên thoả
thuận.
2. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê đợc chuyển quyền sở hữu, mua lại
hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng
cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng
5
cho thuê tài chính, ít nhất phải tơng đơng với giá trị của tài sản đó tại thời
điểm ký hợp đồng".
Nh vậy, chúng ta đã thống nhất sử dụng thuật ngữ "cho thuê tài chính"
trong các văn bản pháp luật nh đã nói ở trên.
1.1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm "cho thuê tài chính" nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm
đặc thù của hoạt động cho thuê tài chính là:
Thứ nhất: tài sản thuê và Nhà cung cấp tài sản do bên thuê lựa chọn mà
không phụ thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của bên cho thuê. Chính vì đặc
điểm này mà bên cho thuê không chịu trách nhiệm về việc tài sản không đợc
giao hoặc không giao đúng với các điều kiện do bên thuê thoả thuận với bên
cung ứng (Khoản 1 Điều 24 Nghị định 16).
Thứ hai: thời hạn thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn thời gian
hữu dụng của tài sản và không thể bị huỷ ngang theo ý chí của một bên. Đặc
điểm này nêu bật rõ những lợi ích mà cho thuê tài chính mang lại không chỉ
riêng cho các chủ thể tham gia hợp đồng mà cho cả nền kinh tế.
Thứ ba: Phần lớn những chi phí cho việc vận hành, bảo dỡng, bảo hiểm
tài sản đợc chuyển giao từ bên cho thuê sang bên thuê. Theo quy định tại
Khoản 5, 6 Điều 26 Nghị định 16: "Bên thuê chịu mọi rủi ro về việc mất mát,
h hỏng đối với tài sản thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử
dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử
dụng tài sản thuê. Đồng thời, bên thuê phải có nghĩa vụ bảo dỡng, sửa chữa tài
sản thuê trong thời hạn thuê. Không đợc tẩy xoá, làm hỏng ký hiệu sở hữu gắn
trên tài sản thuê".
Chính từ những đặc điểm nêu trên, có thể phân biệt cho thuê tài chính với
phơng thức thuê vận hành.
6
Tiêu chí Cho thuê tài chính Thuê vận hành
Thời hạn thuê Trung và dài hạn, chiếm
phần lớn thời gian hữu
dụng của tài sản thuê
Thời hạn thuê ngắn
Huỷ ngang Không đợc phép huỷ
ngang theo ý chí của 1
bên
Đợc phép huỷ ngang nh-
ng phải thông báo trớc
một thời gian
Trách nhiệm bảo dỡng,
bảo hiểm
Thuộc về bên thuê Thuộc về bên cho thuê
Chuyển quyền sở hữu Hai bên thoả thuận khi
kết thúc hợp đồng
Tài sản trở lại bên cho
thuê
Trách nhiệm về rủi ro Bên thuê phải chịu kể cả
những rủi ro không phải
do lỗi của mình gây ra
Bên cho thuê phải chịu,
trừ trờng hợp do lỗi của
bên thuê gây ra
Việc một giao dịch đợc phân loại là cho thuê tài chính hay không phụ
thuộc vào bản chất của giao dịch chứ không phụ thuộc vào loại hợp đồng. Một
giao dịch đợc coi là cho thuê tài chính nếu nó chuyển giao gần nh tất các rủi
ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu cho bên thuê. Loại thuê này thờng
không thể huỷ bỏ và đảm bảo cho bên cho thuê việc hoàn vốn và lợi nhuận đối
với số tiền đã cho vay để dùng vào việc mua tài sản. Đồng thời, thông thờng
bên thuê sẽ nhận lại thiết bị khi hết hạn hợp đồng thuê sau khi trả một khoản
tiền mang tính chất tợng trng hay đã sử dụng thiết bị trong phần lớn thời gian
hữu dụng. Bởi vậy, bên thuê tuy không phải chủ sở hữu về mặt pháp lý của
thiết bị trong thời hạn thuê, nhng bên thuê thực sự chịu mọi rủi ro và hớng mọi
lợi ích kinh tế của quyền sở hữu. Bên cho thuê tuy là chủ sở hữu của thiết bị
lại ở một vị thế tơng đơng với một nhà đầu t tài chính chứ không phải là một
chủ sở hữu.
1.2. Lợi ích của cho thuê tài chính.
Tham giao vào một giao dịch cho thuê tài chính thờng bao gồm bên cho
thuê, bên thuê và nhà sản xuất hay nhà cung ứng. Lợi ích của cho thuê tài
chính đem lại cho các bên tham gia nói riêng và nền kinh tế nói chung là:
1.2.1. Đối với bên cho thuê:
- Cho thuê tài chính là một phơng thức tài trợ hạn chế tới mức thấp nhất
những rủi ro có thể xảy ra. Vì trong suốt thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản
luôn thuộc về bên cho thuê. Do đó, nếu có những đe doạ đối với sự an toàn
7
của tài sản thuê (chẳng hạn bên thuê lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải
thể), bên cho thuê hoàn toàn có khả năng thu hồi tài sản thuê ngay lập tức.
Mặt khác, trong cho thuê tài chính, vốn tài trợ đợc thể hiện bằng hiện vật (tài
sản thuê) nên không bị ảnh hởng của lạm phát. Bên cho thuê cũng không phải
chịu những rủi ro do sự giảm giá trị của tài sản do tác động của điều kiện
khách quan;
- Bên cho thuê có thể biết chắc rằng vốn mà họ cho vay đợc sử dụng
đúng mục đích nh trong hợp đồng, vì dới hình thức này, bên cho thuê trực tiếp
mua máy móc thiết bị từ nhà cung cấp (thờng là sau khi ngời đi thuê đã lựa
chọn) và do đó ngời đi thuê không có cơ hội sử dụng đợc tài trợ vào mục đích
khác. Qua đó, bên cho thuê đảm bảo đợc khả năng thu hồi nợ từ ngời đi thuê.
- Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa dạng
hoá việc sử dụng vốn, đồng thời mở rộng mối quan hệ kinh doanh đa phơng.
- Cho thuê tài chính giúp ngời cho thuê linh hoạt trong kinh doanh; Trong
thời gian tài trợ, vốn của ngời cho thuê bỏ ra để mua máy móc tài sản cho
thuê, số tiền này sẽ đợc thu hồi dần và cho phép ngời cho thuê có thể sử dụng
vốn đó để tái đầu t vào những hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận và
giữ vững đợc nhịp độ hoạt động của mình.
- Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định tài trợ nhanh.
Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với t cách là nhà tài
trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không nhất
thiết phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính chất kỹ thuật, nghiệp vụ.
Hơn nữa, độ an toàn cho vốn đầu t cao, nên nhìn chung thủ tục tài trợ th-
ờng đơn giản, nhanh gọn hơn so với trờng hợp cho vay.
1.2.2. Đối với bên thuê.
- Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn
chế về nguồn vốn đầu t. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công
suất của doanh nghiệp có thể đợc đặt ra vào bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các
nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích luỹ. Trong khi đó, các doanh
nghiệp Việt Nam phổ biến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số doanh nghiệp
có vốn đầu t trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số các doanh nghiệp.
Loại doanh nghiệp có quy mô tài sản cố định từ 1 tỷ - 10 tỷ đồng chiếm 58%,
phần còn lại chiếm 25% có quy mô dới 1 tỷ đồng, những doanh nghiệp này th-
ờng gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu đi vay theo
các thể thức tín dụng thông thờng lại thiếu tài sản thế chấp. Thông qua cho
thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn mua đợc máy
8
móc, thiết bị phục vụ yêu cầu của sản xuất và sau một số năm có thể có đợc
một số tài sản tích luỹ nhất định.
Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang có một nhu cầu rất
lớn về đầu t, từ việc đầu t một nhà máy mới với dây chuyền sản xuất hoàn
chỉnh cho tới việc đổi mới riêng lẻ, từng phần các loại máy móc, phơng tiện
vận chuyển, thông tin liên lạccó trình độ trung bình khá trở lên so với thế
giới. Trong một số ngành không nhất thiết phải có ngay các công nghệ hiện
đại, bởi Việt Nam có lợi thế trong các ngành có lực lợng lao động cao nhờ tận
dụng nguồn nhân lực dồi dào, giá lao rộng rẻ. Ưu thế của tín dụng cho thuê tài
chính có thể giải quyết tốt nhu cầu này.
- Những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các Tổ
chức tài chính cũng có thể nhận đợc vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính.
Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh
nghiệp mới thành lập, cha có uy tín với các Tổ chức tài chính thờng rất khó
thoả mãn các điều kiện chống rủi ro nên thờng bị các tổ chức này từ chối cho
vay. Trong khi đó, do đặc thù của cho thuê tài chính là bên cho thuê nắm
quyền sở hữu đối với tài sản thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc
sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của bên thuê. Vì vậy, các Công ty cho
thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu t của khách hàng ngay cả
khi vị thế tài chính, uy tín của họ có những hạn chế.
Hơn nữa, do chuyên biệt kinh doanh cho thuê tài chính là các loại tài sản
thiết bị nên các Công ty cho thuê tài chính thờng có mạng lới hoạt động rộng
rãi, có nhiều mối quan hệ với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), có đội
ngũ cán bộ hiểu biết về thiết bị - công nghệ cao nên họ có thể cung cấp cho
các doanh nghiệp các loại thiết bị đúng yêu cầu, điều này tránh rủi ro cho các
doanh nghiệp so với trờng hợp doanh nghiệp tự mua lấy. Đồng thời, thông qua
cho thuê tài chính mà doanh nghiệp có thể thanh lý, chuyển nhợng các máy
móc, công nghệ đã cũ. Dĩ nhiên, điều này phải đi đôi với việc phát triển một
thị trờng công nghệ cũ và mới thông qua các trung gian là các Công ty cho
thuê tài chính. Cũng nhờ có chuyên môn cao về thiết bị, công nghệ nên các
Công ty cho thuê có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho phù hợp với
nhu cầu của khách hàng ở các khu vực thị trờng khác nhau.
- Cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng
vốn trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh
nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lu động hay chuyển
dịch vốn đầu t cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi
9
vẫn duy trì đợc hoạt động đầu t hiện hành vì tài sản vẫn đợc tiếp tục sử dụng.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh mà có
nhu cầu về thiết bị và tài sản thì vẫn có thể thực hiện đợc thông qua mua tài
sản cố định.
- Cho thuê tài chính là phơng thức rút ngắn thời gian triển khai đầu t đáp
ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phơng thức tăng vốn khác, cho
thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn nên các thủ tục và điều kiện tài trợ
cũng đơn giản hơn. Do bên thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản
thiết bị, hay đàm phán, thoả thuận trớc về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà
cung cấp, sau đó mới yêu cầu Công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả
thuận nhu cầu đầu t của khách hàng ngay cả khi khả năng tài chính, uy tín của
họ có những hạn chế.
Hiện nay, các Công ty cho thuê tài chính có xu hớng hoạt động chuyên
môn hoá sâu trong lĩnh vực tài sản cho thuê, thờng tổ chức cung ứng các loại
thiết bị theo phơng thức khép kín, thiết bị thờng bị gắn liền với phụ tùng, linh
kiện, kỹ năng quản trị, sản phẩm cho khách hàng. Điều này giúp bên thuê
nhanh chóng đáp ứng đợc các cơ hội kinh doanh.
- Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc
độ phát triển của công nghệ mới. Trong điều kiện bùng nổ công nghệ hiện
nay, việc thay đổi thiết bị, máy móc theo kịp đà phát triển của công nghệ mới,
góp phần sản xuất ra những sản phẩm chất lợng cao, có sức cạnh tranh trên thị
trờng là một vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhng đây cũng
là một khó khăn đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia đang phát triển hoặc đối với các
doanh nghiệp phải tự xuất vốn hay vay vốn để đầu t. Cho thuê tài chính có thể
góp phần vào việc giải bài toán về vốn và công nghệ này.
- Thông qua cho thuê tài chính, việc thay đổi công nghệ của doanh
nghiệp diễn ra có u thế hơn so với các hình thức tài trợ khác (do đặc điểm của
nó là tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, nên mọi rủi ro về mặt
pháp lý và những rủi ro hao mòn vô hình đều thuộc về phía bên cho thuê. Bên
cho thuê thờng phải sử dụng những khả năng chuyên biệt về nghiệp vụ cho
thuê tài chính để khắc phục những rủi ro này).
- Cho thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp Việt Nam thu hút vốn
đầu t nớc ngoài. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp Việt Nam có
thể huy động đợc vốn nớc ngoài thông qua các Công ty cho thuê tài chính
quốc tế hay các Công ty liên doanh cho thuê tài chính hoạt động ở Việt Nam.
10
Lợi thế chính là hiện nay mức lãi suất ngoại tệ trên thị trờng vốn quốc tế thấp
hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua thuê máy móc thiết bị, các
doanh nghiệp có thể nhận đợc vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với thị tr-
ờng vốn bằng đồng Việt Nam.
- Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hoãn thuế. Các Khoản tiền thuê
phải trả hàng năm đợc tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó chúng làm
giảm mức lợi nhuận của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó,
khoản chi phí này đợc nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp và
nhân với lãi suất cho vay của ngân hàng sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do hoãn
thuế bởi cho thuê tài chính đem lại cho doanh nghiệp.
- Số tiền thuê mà bên thuê phải trả đợc tính vào chi phí kinh doanh. Do
đó, chúng làm giảm số thuế mà họ phải trả. Sau khi hợp đồng cho thuê kết
thúc, nếu bên thuê đợc quyền chọn mua tài sản thì giá mua thờng thấp hơn so
với giá trị còn lại của tài sản.
1.2.3. Đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị).
Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) khi chào bán sản phẩm của
mình trên thị trờng đều mong muốn bên mua sẽ trả đủ tiền để nhà sản xuất
(hoặc nhà cung cấp thiết bị) có vốn lu động, tạo cơ hội mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Nhng trên thực tế, không phải tất cả các chủ thể
muốn mua thiết bị đều có đủ khả năng về tài chính hoặc trong trờng hợp có
doanh nghiệp đủ khả năng về tài chính nhng họ không muốn đầu t số tiền này
để làm vốn lu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh). Chính vì vậy,
thông qua hợp đồng cho thuê tài chính mà bên cho thuê trong hợp đồng này sẽ
mua tài sản thuê để cho thuê và hoãn trả toàn bộ số tiền tơng ứng với giá trị tài
sản.
- Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, nhà sản xuất (hoặc nhà cung
cấp thiết bị) sẽ tìm hiểu đợc nhu cầu thiết yếu của bản thân ngời sử dụng thiết
bị, từ đó có kế hoạch đầu t đúng đắn.
- Thông qua cho thuê tài chính, các nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết
bị) có thể bán thiết bị cũ, nhập thiết bị mới hay nhận đợc lời khuyên nên áp
dụng trình độ công nghệ ở mức nào cho phù hợp với doanh nghiệp, thị trờng
và môi trờng kinh tế vĩ mô.
1.2.4. Đối với nền kinh tế.
Cho thuê tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể
có liên quan mà hình thức này còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế.
Điều này thể hiện:
11
- Cho thuê tài chính là hình thức thu hút vốn đầu t trung, dài hạn cho nền
kinh tế. Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi
hơn các hình thức khác nên cho thuê tài chính có thể khuyến khích các thành
phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế t bản t nhân và nhất là các Tổ chức tài
chính đầu t vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt động cho thuê tài chính đã huy
động đợc những nguồn vốn nhãn rỗi trong nội bộ nền kinh tế, thậm chí thu hút
vốn đầu t các lĩnh vực đầu t khác. Mặt khác, trong điều kiện giao lu quốc tế
ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp cho quốc gia thu hút các nguồn
vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các loại máy móc tài sản cho thuê mà
quốc gia đó nhận đợc. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu t nớc ngoài này
không làm tăng Khoản nợ nớc ngoài của quốc gia nhận đợc tài sản cho thuê.
- Cho thuê tài chính thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức
tài chính. ở rất nhiều quốc gia, sự phát triển của cho thuê tài chính đã dẫn tới
việc giảm các chi phí, đồng thời tăng các nguồn vốn cho hoạt động đầu t;
- Cho thuê tài chính là nhân tố tác động tích cực cho sự phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp này đều không đáp
ứng đợc một số điều kiện nhất định khi có ý định vay tín dụng tại ngân hàng.
Đồng thời, nó góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết
bị, cải tiến kỹ thuật. Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy
móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến đợc đa vào các doanh nghiệp góp
phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện khó
khăn về vốn đầu t. Ngay cả đối với các nớc có nền kinh tế phát triển cao nh
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Phápcho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng, cập nhật
khoa học công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Đối với các quốc gia chậm phát
triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn diện thì tác dụng của
nó còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là trong thời đại ngày nay, việc đầu t công
nghệ hiện đại một cách kịp thời nhanh chóng đối với các nền kinh tế chậm
phát triển gặp rất nhiều khó khăn. Nếu có chính sách đúng đắn, hoạt động cho
thuê tài chính có thể đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ nhanh chóng.
Bên cạnh những lợi thế, cho thuê tài chính cũng có những hạn chế nhất
định. Điều này lý giải tại sao hoạt động cho thuê tài chính không thể thay thế
hoàn toàn cho các hoạt động tín dụng khác với t cách là một kênh cấp vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Những hạn chế đó là:
- Đối với bên thuê: Vào giai đoạn cuối của hợp đồng thuê, mặc dù bên
thuê đã trả gần nh đủ số tiền thuê nhng bên thuê vẫn cha đợc sử dụng tài sản
vào mục đích khác. Hơn nữa, bên thuê có thể phải chịu những rằng buộc bởi
12
một số biện pháp bảo đảm đối với tài sản thuê nh: không cho ngời khác thuê
lại khi cha có sự đồng ý của bên cho thuê hoặc phải chịu sự kiểm tra bất cứ
khi nào theo yêu cầu của bên cho thuê.
- Đối với bên cho thuê, rủi ro có thể xảy ra nh: rủi ro về tài chính, khi mà
bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn hoặc tiền thuê nhận đợc không đủ bù
đắp vốn gốc; hoặc rủi ro liên quan đến tài sản thuê, khi mà tài sản cho thuê
không thu hồi về không thể cho thuê tiếp hay không bán đợc chúng; tài sản do
nhà nhà sản xuất giao cho bên cho thuê không đúng theo hợp đồng, tài sản
không đợc phép kinh doanh; hoặc rủi ro sự thay đổi về luật pháp, do sự biến
động của thị trờng bởi khủng hoảng kinh tế.
(2)
I.3. Các phơng thức cho thuê tài chính
- Cho thuê giáp lng (Under Lease).
Một trong những đặc điểm của cho thuê tài chính là các bên không đợc
huỷ ngang hợp đồng trớc thời hạn. Do đó, nếu sau khi ký hợp đồng, bên thuê
không có nhu cầu sử dụng tài sản nữa và thời hạn thuê vẫn cha hết thì họ sẽ ở
trong tình trạng bất lợi. Để khắc phục tình trạng này, bên thuê có thể tìm một
bên thuê thứ hai để cho thuê lại tài sản. Bên thuê thứ hai sẽ trả tiền thuê cho
bên thuê thứ nhất đồng thời có mọi quyền lợi, nghĩa vụ khác trong việc sử
dụng tài sản thuê. Tuy nhiên, vì hợp đồng ký giữa bên cho thuê và bên thuê
thứ nhất vẫn có hiệu lực nên bên thuê thứ nhất vẫn có nghĩa vụ trả tiền thuê
cho bên cho thuê và phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những rủi ro, thiệt
hại có thể xảy ra đối với tài sản. Việc cho thuê lại chỉ đợc tiến hành nếu có sự
đồng ý của bên cho thuê.
Pháp luật Việt Nam quy định, bên thuê không đợc chuyển quyền sử dụng
tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không đợc bên cho thuê đồng ý
bằng văn bản (điểm a Khoản 2 Điều 63 Luật Các Tổ chức Tín dụng).
Cho thuê bắc cầu: Là trờng hợp ngời cho thuê đi vay để mua tài sản rồi
cho thuê, loại cho thuê này thờng áp dụng cho các dự án đầu t lớn.
- Bán và tái thuê (Sale and Lease - back).
Hình thức bán và tái thuê đợc doanh nghiệp sử dụng khi doanh nghiệp
khó khăn về vốn lu động nhng lại không thể vay hoặc bán đứt tài sản, thiết bị
đang sử dụng đi đợc. Trong giao dịch này, doanh nghiệp bán một tài sản, thiết
bị cho Công ty cho thuê tài chính và ngay lúc đó thuê lại chính tài sản, thiết bị
này từ Công ty. Lúc này, doanh nghiệp sẽ có vốn để tiếp tục sản xuất. Cho đến
cuối thời hạn thuê, khi đã trả hết tiền thuê, doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền
(2)
Đoàn Thanh Hà, Cho thuê tài chính - giải pháp về vốn để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp, Tạp chí
Tài chính doanh nghiệp 11/2000
13
chọn mua (nếu có) và các tài sản, thiết bị này trở lại quyền sở hữu của doanh
nghiệp. Nh vậy, bản chất của thoả thuận bán và tái thuê là: ngời thuê giữ lại
quyền sử dụng trong khi chuyển giao quyền sở hữu.
Hình thức này đã đợc ghi nhận tại Khoản 3, Điều 16, Nghị định 16: Mua
và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính (gọi tắt là mua và cho thuê
lại). Theo hình thức này, Công ty cho thuê tài chính mua lại máy móc, thiết bị,
phơng tiện vận chuyển và các động sản khác thuộc sở hữu của bên thuê và bên
thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động
của mình.
- Thuê qua biên giới (Cross - border Lease)
Các bên tham gia quan hệ thuê qua biên giới cũng giống nh các bên
trong hình thức thuê bắc cầu. Tài sản cho thuê qua biên giới thờng đòi hỏi vốn
lớn, có giá trị cao nh máy bay, tàu vận tải biển nhng nó khác với thuế bắc cầu
là các bên trong quan hệ thuê qua biên giới nh bên cho thuê, bên thuê có trụ
sở và quốc tịch ở các nớc khác nhau. Lợi thế của hình thức này là các bên đợc
hởng lợi từ việc miễn thuế hoặc do chính sách thuế khác nhau của từng nớc,
nh bên cho thuê không phải nộp thuế xuất khẩu do xuất khẩu đợc hàng hoá,
bên thuê do nhập thiết bị phục vụ sản xuất nên đợc miễn thuế nhập khẩu và
thuế VAT (nh ở Việt Nam hiện nay). Do đợc hởng lợi từ thuế, bên thuê sẽ có
lợi của việc giảm tiền thuê, nhờ đó sẽ giảm tiền khấu hao tài sản của chính tài
sản thuê.
- Cho thuê vận hành:
Cho thuê vận hành (cho thuê hoạt động) là hình thức cho thuê tài sản,
theo đó bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời
gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho bên thuê khi kết thúc thời hạn thuê
tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê
theo hợp đồng cho thuê
(3)
.
Thông qua việc giao kết các hợp đồng cho thuê tài chính, các chủ thể xác
lập quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ này sẽ bao gồm những
nội dung gì? Có khác so với hợp đồng thuê thông thờng không?Phần tiếp
theo của khoá luận sẽ nghiên cứu những khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp
đồng cho thuê tài chính trên cơ sở đó có sự so sánh với hợp đồng thuê thông
thờng và nêu ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện chế định này.
I.4. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho
thuê tài chính.
(3)
Theo quyết định 731/ 2004/ QĐ - NHNN ngày 15/6/2004 về việc ban hành quy chế tạm thời cho thuê vận
hành của Công ty cho thuê tài chính.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét