Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ thu nhập ròng sẽ cao hơn so với vốn
điều lệ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ sung cho vốn điều lệ còn có thể là là từ phát hành thêm cổ phần , góp
thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị,
hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn do ngân hàng nhà nước quy định… đặc
điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân
hàng có được nguồn vốn lớn và lúc cần thiết.
- Một số khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại được ngân hàng
quy định có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần. Đây là khoản nợ lưỡng tĩnh. Do
tính chất này mà ngân hàng trung ương nhiều nước xếp chúng vào vốn chủ sở
hữu loại 2 với tỷ lệ 50% để tính tỷ lệ an toàn vốn chủ sở hữu
- Vốn điều lệ chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng trong kinh
doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của ngân hàng nhà
nước Việt Nam tỷ lệ vốn điều lệ /tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy chiếm tỷ trọng
nhỏ , song vốn điều lệ có vai trò rất quan trọng
+ Vốn điều lệ có vai trò đảm bảo cho người gửi tiền. kinh doanh ngân hàng
thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù
đắp bằng vốn điều lệ . Như vậy, nếu quy mô vốn điều lệ càng lớn, người gửi tiền
và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng
+ Vốn điều lệ có vai trò tạo lập tư các pháp nhân và duy trì hoạt động cho ngân
hàng: như đã phân tích ở trên để hoạt động điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải
có vốn điều lệ đáp ứng vốn tối thiểu ban đầu mà ngân hàng nhà nước quy định.
Và như thế lúc này ngân hàng có tư cách pháp nhân trong việc kinh doanh ngân
hàng , kinh doanh tiền tệ
+ Ngoài ra, vốn điều lệ còn có vai trò điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng:
Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với vốn
Võ Anh Dũng
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
điều lệ như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ vốn điều lệ… vì vậy quy
mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng sẽ thay đổi theo sự điều chỉnh vốn điều lệ.
1.1.2 Nguồn vốn từ huy động vốn:
Khác với các loại hình doanh nghiệp khác , vốn huy động của ngân hàng thương
mại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với vốn điều và đây là loại vốn cơ bản để tài
trợ cho cách danh mục tài sản của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn này được
huy động từ tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi .
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải thanh toán khi khách hàng yêu cầu
ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn
Quy mô tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn vốn này
chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân
hàng
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao
hơn lãi trả cho tiền gửi
Tiền gửi nhất là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi
suất, tỷ giá , thu nhập và các yếu tố khác. Lãi suất cao là yếu tố khích thích các
doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng
quy mô và thay đổi kỳ hạn nguồn tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau.
- tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng
giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của
doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo
Võ Anh Dũng
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp, thay vào đó chủ tài
khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng
mở tài khoản tiền gửi thanh toán ( tài khoản có thêt phát hành séc ) cho khách
hàng với thủ tục mở đơn giản và yêu cầu đối với khách hàng là khách hàng phải
có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp , các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi
trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt
động thanh toán nhưng lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người
gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kỳ hạn. Người gửi không
được phép sử dụng các dịch vụ thanh toán như tiền gửi thanh toán để áp dụng
với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu người gửi phải đến ngân hàng rút tiền. tuy
không tiện lợi cho tiêu dung bằng tiền gửi thanh toán nhưng lại được hưởng lãi
suất cao hơn tùy độ dài của kỳ hạn
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cử đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng . Trong
điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm
thực hiện mục tiêu bảo toàn và sinh lời với các khoản tiền tiết kiệm đặc biệt là
nhu cầu bảo toàn.
- Có thể nói nếu vốn điều lệ có vai trò quan trọng để ngân hàng có thể đi vào
hoạt động và là đệm đỡ không thể thiếu của ngân hàng thì tiền gửi lại là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
Trên cơ sở vốn tiền gửi được tạo lập, ngân hàng sử dụng để cho vay, đầu tư vào
chứng khoán , mua sắm tài sản cố định , tiền gửi tại ngân hàng khác và được
thực hiện dự trữ theo quy định để dảm bảo khả năng thanh toán. Quy mô, cơ cấu
của nhóm tài sản này được xác định mật phần căn cứ quy mô và cơ cấu vốn nợ
Võ Anh Dũng
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Thêm vào đó , tính ổn định về chi phí và thời hạn của tiền gửi quy định số tiền
phải dự trữ là cơ sở cân nhắc đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn hay
cho vay với thời hạn nào, lãi suất bao nhiêu để phù hợp với vốn
1.1.3 Tiền vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi
cần, ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm. Tại nhiều nươc ngân hàng
trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do
vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp
ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế
- Có thể vay ngân hàng trung ương. Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại, Trong trường hợp thiếu hụt dự
trữ, ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay
chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ). Các
thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu ( hoặc tái chiết
khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương
phiều này lên tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. Thông thường ngân hàng
nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp
với mục tiêu của ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ. Trong trường hợp chưa
có thương phiếu , ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình
thưc tái cấp vốn theo hạn mức nhất định
- Vay các tổ chức tín dụng khác. Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn
nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các
ngân hàng đang có dự trữ vượt mức yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các
khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay có thể sẵn long cho các ngân hàng khác
vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Như vậy nguồn vay mượn từ các các ngân
hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều
Võ Anh Dũng
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng nhà
nước.
- vay trên thị trường vốn. Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng
vay mượn bằng các phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu , trái phiếu) trên
thị trường vốn . Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và
dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy,
các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay
không có bảo đảm . Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao thì sẽ được
vay nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách
này; họ thường phải vay thông qua ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của ngân
hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị
trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nơ dài hạn của ngân hàng.
1.1.4 Vốn nợ khác
Loại này bao gồm nguồn ủy thác , nguồn trong thanh toán , các nguồn khác
Tiền ủy thác là tiền ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ ủy thác cho
vay , ủy thác đầu tư , ủy thác cấp phát , ủy thác giải ngân và thu hộ… Các hoạt
động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng, làm gia tăng vốn tại ngân hàng.
Tiền trong thanh toán là các hoạt động không dùng tiền mặt có thể hình thành
nguồn trong thanh toán( séc trong quá trình chi trả , tiền ký quỹ để mở L/C,…)
những ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của ngân
hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay
Tiền khác như các khoản thuế chưa nộp, lương chưa trả …
1.2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại hay còn
gọi là nghiệp vụ tạo vốn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm thu hút
Võ Anh Dũng
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
vốn từ các tổ chức và cá nhân trong trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh
doanh của mình.
Quá trình huy động vốn của Ngân hàng thương mại chính là quá trình tích
tụ và tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội, sau đó cho cá nhân hoặc doanh nghiệp
khác vay để đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế
xã hội và tiêu dùng của các tổ chức ,các nhân. Với chức năng làm trung gian tài
chính,hoạt động huy động vốn của ngân hàng đã góp phần điều tiết nguồn tiền
của xã hội, chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, lưu chuyển tiền tệ từ nơi thừa
sang nơi thiếu. Giả sử như không có ngân hàng thương mại làm trung gian tài
chính thì việc những cá nhân tổ chức thặng dư trong chi tiêu sẽ không có đủ
thông tin hay công cụ để tìm đến những cá nhân tổ chức thâm hụt trong chi tiêu.
Chưa kể đến dù họ có tìm được đối tác thì việc đi lại, cách trở về địa lý cũng như
nhũng chi phí khác sẽ làm cho người đi tìm vốn cũng như nhà đầu tư chịu mức
chi phí không nhỏ. Do đó những người có cung và cầu về vốn có thể dễ dàng
thoả mãn nhu cầu của mình thông qua kênh đầu tư và cung ứng vốn gián tiếp khi
tìm đến ngân hàng mà không phải tốn thời gian, công sức và chi phí để tìm kiếm
đối tác thích hợp. Huy động vốn đã tiết kiệm được chi phí, nguồn lực cho cả
người cung ứng và nhận vốn, do vậy đã tiết kiệm được chi phí xã hội đồng thời
đẩy nhanh quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, nguồn vốn được sử dụng một
cách hiệu quả hơn. Mặt khác, người tiết kiệm thu thêm được một khoản lãi từ
vốn tạm thời nhàn rỗi của mình, còn người có nhu cầu về vốn thì có vốn kịp thời
cho sản xuất kinh doanh, gia tăng lợi nhuận.
Huy động vốn của ngân hàng thương mại góp phần kiềm chế và kiểm soát
lạm phát thông qua vịêc điều tiết lượng tiền mặt trong lưu thông ,giúp ổn định
giá trị đồng tiền. Các ngân hàng cũng là nơi cung cấp một lượng vốn tín dụng
lớn phục vụ cho các dự án của chính phủ về phát triển sản xuất kinh doanh, phát
triển kinh tế, các dự án thực hiện chính sách xã hội, bù đắp sự thiếu hụt tạm thời cho
Võ Anh Dũng
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
ngân sách nhà nước thông qua các hình thức vay nợ giữa ngân sách và ngân
hàng
Ở nước ta hiện nay, tín dụng là hoạt động chiếm tỉ trọng lớn trong các hoạt
động của Ngân hàng thương mại và mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân
hàng. Do vậy đòi hỏi các ngân hàng không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng của mình. Mà muốn có tín dụng thì ngân hàng phải có vốn và
vốn này được huy động từ nền kinh tế. Như vậy, có thể nói huy động vốn là hoạt
động khởi đầu cho mọi hoạt động khác của ngân hàng thương mại, phần lớn vốn
huy động sẽ được dùng để cho vay và thu lợi nhuận, góp phần thúc đẩy sự tồn tại
và phát triển của ngân hàng.
1.2.1 Theo thời gian huy động
- Huy động vốn ngắn hạn: Là những khoản tiền có thời hạn dưới 12 tháng mà
ngân hàng áp dụng để huy động vốn ngắn hạn trên thị trường. Để thoả mãn nhu
cầu của khách hàng, ngân hàng có thể chia nhỏ từng kỳ hạn thành nguồn 3, 6, 9,
12 tháng với mức lãi suất phù hợp và thấp hơn so với loại có kỳ hạn dài hơn.
Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động
được của ngân hàng
- Huy động vốn trung và dài hạn: Để phục vụ chủ yếu cho các khoản vay trung
và dài hạn, các Ngân hàng thương mại đã tạo ra các sản phẩm với các mức kỳ
hạn từ 12 tháng trở lên. Do thời gian huy động khá dài cho nên nguồn này không
được nhiều sự ưa chuộng của khách hàng. Vì nguồn vốn này đóng vai trò rât
quan trong trong hoạt động kinh doanh của mình, cho nên ngân hàng cần phải
thực hiện nhiều giải pháp để thu hút được nhiều hơn nguồn vốn này.
- Huy động vốn khác: nguồn vốn này ngân hàng huy động chủ yếu là thông
qua các dịch vụ vốn có của ngân hàng như: nhận giữ hộ, tiền gửi đảm bảo
thanh toán L/C, nhờ thu: đây là những nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được
Võ Anh Dũng
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
khi thực hiện chức năng làm trung gian thanh toán hoặc làm đại lý, tiếp nhận vốn
tài trợ uỷ thác đầu tư.
Vốn trong thanh toán được tạo lập từ các tài khoản mở thư tín dụng, tài
khoản bảo lãnh…mà chưa đến hạn thanh toán, thực hiện nghiệp vụ đại lý, tiếp
nhận vốn tài trợ uỷ thác đầu tư thì Ngân hàng thương mại cũng tạo lập một
lượng nguồn vốn nhất định. Đối với một nền kinh tế càng phát triển thì tiềm
năng nguồn vốn này cũng tăng.
1.2.2 Theo đối tượng huy động
1.2.2.1 Huy động từ dân cư:
Nguồn vốn này chủ yếu là tiền gửi cá nhân có tiềm năng lớn và khá ổn
định đối với ngân hàng. Người dân có nguồn tiền chưa sử dụng, họ gửi tiền
vào ngân hàng để chuẩn bị cho những công việc trong tương lai của mình,
đồng thời cũng muốn khoản tiền đó sinh lãi. Nguồn vốn này rất đa dạng, vì
thế nó có thể huy động dưới nhiều hình thức để phục vụ mục tiêu phát triển của
ngân hàng. Khi thu nhập và đời sống của con người được nâng lên thì ngày càng
có nhiều cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và thực hiện các giao dịch,
thanh toán qua ngân hàng. Do vậy, tài khoản tiền gửi các cá nhân cũng góp phần
tăng cường nguồn vốn tín dụng cho các Ngân hàng thương mại.
1.2.2.2 Huy động từ các tổ chức kinh tế:
Đây là lượng tiền được giải phóng tạm thời khỏi quá trình sản xuất –
lưu thông của các đơn vị theo điều lệ quản lý tiền mặt và chế độ thanh toán
không dùng tiền mặt, các tổ chức kinh tế phải mở tài khoản ở ngân hàng. Loại
tiền gửi này được bảo quản trên tài khoản tiền gửi.
1.2.3 Theo hình thức huy động
1.2.3.1 Tiền gửi Thanh toán ( TG KKH):
Là loại tiền gửi được thể hiện trên tài khoản tiền gửi có thể phát hành
séc (Tài khoản giao dịch) của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức khác.
Võ Anh Dũng
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Đây là tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng nhằm mục đích
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu
chi tiêu của khách hàng sẽ được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền
mặt của doanh nghiệp và cá nhân sẽ được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu
cầu. Nhìn chung, lãi suất của các khoản tiền gửi thanh toán thấp hơn các hình
thức gửi tiền khác, nhưng thay vào đó, chủ tài khoản sẽ được sử dụng các dịch
vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi thanh toán
hay còn gọi là tài khoản có thể phát hành séc cho khách hàng với thủ tục rất đơn
giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ được thanh toán
trong phạm vi số dư trên tài khoản hoặc hơn số dư trên tài khoản với một định
mức cho phép đối với những đối tượng chiến lược của ngân hàng. Ngân hàng có
thể kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – vượt
mức số dư có của tài khoản tiền gửi ). Một ngân hàng có thể sử dụng nhiều hình
thức tài khoản thanh toán nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
1.2.3.2 TG có kỳ hạn từ TCKT:
Đây là tiền gửi của các doanh nghiệp tạm thời chưa sử dụng trong một
thời gian nhất định gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao hơn lãi suất tiền
gửi không kỳ hạn nhằm tăng thêm thu nhập cho doanh nghiệp. Nhiều khoản
thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một
khoảng thời gian đã được thỏa thuận trước. Tiền gửi thanh toán tuy thuận tiện
cho doanh nghiệp trong thanh toán nhưng lãi suất lại thấp . Do đó, để đạt được
lợi ích lớn hơn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, ngân hàng đã đưa ra
hình thức gửi tiền có kỳ hạn, theo đó người gửi không được sử dụng các hình
thức thanh toán giống như tiền gửi thanh toán, nếu cần chi tiêu khách hàng phải
đến ngân hàng để rút tiền ra. Tiền gửi có kỳ hạn mặc dù không thuận tiện bằng
tiền gửi thanh toán nhưng ưu điểm của nó là có lãi suất cao hơn.
1.2.3.3 Tiền gửi Tiết kiệm:
Võ Anh Dũng
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Nguồn vốn này chủ yếu là tiền gửi của cá nhân, nhằm mục đích tiết
kiệm phục vụ các mục đích lâu dài của cá nhân như: xây dựng nhà ở, phục vụ
con cái học hành,…. Đây là một hình thức huy động truyền thống của ngân
hàng. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các
khoản tiền tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ
đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với
các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều
tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói
quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa
ra các hình thức huy động , các gói dịch vụ đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp
dẫn như các kỳ hạn khác nhau, mở cho mỗi người nhiều chuyên mục tiết kiệm
( hoặc sổ tiết kiệm ) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm
không thể dùng để mua hàng nhưng có thể dùng để thế chấp vay vốn ngân hàng .
1.2.3.4 Phát hành giấy tờ có giá:
Thông thường khi nguồn vốn tự có và các nguồn vốn huy động ở các
khoản tiền gửi trên không đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của mình thì ngân
hàng thương mại được phép huy động dưới hình thức khác như:
- Kỳ phiếu ngân hàng: Là hình thức huy động vốn có ưu thế hơn so với
trái phiếu vì kỳ hạn ngắn hơn và thường có lãi suất cao hơn lãi suất tiết
kiệm, vì thế nó thu hút nhiều đối tượng quan tâm hơn nhưng cũng
chính vì thế nó tiềm chứa nhiều rủi ro hơn nên nó được sử dụng tuỳ
vào tình hình cụ thể của vốn ngân hàng. Đây là công cụ có tính lỏng
cao, dễ chuyển nhượng thành tiền mặt khi cần cho nên nó được các
nhà đầu tư rất ưa thích.
- Trái phiếu ngân hàng: Là một trong nhiều công cụ vay nợ dài hạn trên
thị trường vốn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử
dụng do đó nó cho phép ngân hàng có được lượng vốn dài hạn để thực
Võ Anh Dũng
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét