Quốc, chỉ có CNXH mới phát triển được Trung quốc. Bản thân việc thực hiện mở
cửa đối ngoại không phải là mục đích mà chỉ là một biện pháp. Mục đích căn bản
của việc mở cửa đối ngoại là ở chỗ đẩy nhanh phát triển sức sản xuất xã hội, đẩy
nhanh việc thực hiện chiến lược hiện đại hoá, xây dựng CNXH mang màu sắc
Trung quốc một cách tốt hơn.
Bắt đầu từ hội nghị trung ương 3 khoá XI 1978 ĐCS Trung quốc,Trung quốc
đã xác lập đường lối lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, thực hiện cải cách mở
cửa, phát triển kinh tế quốc dân, đẩy mạnh công cuộc xây dựng hiện đại hoá
XHCN và nền kinh tế Trung quốc đã dần dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường XHCN từ đóng cửa nửa đóng cửa
sang mở cửa, dần dần hoàn thiện cục diệnmở cửa đối ngoại toàn phương vị nhiều
tầng nấc, mở rộng trên nhiều lĩnh vực
Nội dung mở cửa đối ngoại của Trung Quốc còn được nhấn mạnh trong các
báocáo chính trị ở các kì Đại hội tiếp theo.
Đại hội XIII 1987
Năm 1987 Đại hôi ĐCS Trung Quốc lần thứ XIII đưa ra mô hình “nhà nước điều
tiết thị trường thị trường dẫn dắt xí nghiệp” đã làm nổi bật tác dụng của thị trường
và có thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá XHCN sang thuyết
kinh tế thị trường XHCN.
Do trong một thời gian dài nhà nước chưa quản lí thống nhất các hoạt động xuất
nhập khẩu trên phạm vi cả nước nên trong thời kì này Trung Quốc thực hiện việc
mở rộngcửa ra thế giới nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật.
Đại hội XIV 1992
Trung Quốc bắt đầu thí điểm việc thực hiện thu hút vốn vào ngành buôn bán lẻ ở
5 đặc khu kinh tế “ Thâm Quyến, Chu Hải ,Sán Đầu, Hạ Môn và Hải Nam” và 6
thành phố lớn ở Trung Quốc “Bắc Kinh , Thượng Hải, Thiên Tân,Quảng Châu,
Đại Liên, Thanh Đảo” với 14 công ty.
5
Trung Quốc đã ban hành chính sách nhằm mở rộng cửa hơn nữa đối với khu vực
miền Trung và miền Tây. Như năm 1996 đã công bố: Thông tư về quyền hạn phê
chuẩn các hạng mục thu hút vôn đầu tư trực tiếp của nước ngoài cho các đơn vị:
Tỉnh, khu tự trị, thành phố và các bộ hữu quan thuộc quốc vụ viện, quy định cho
phép các địa phương , các bộ có quyền phê chuẩn mức đầu tư vốn nước ngoài vào
hạng mục từ dưới 10 triệu USD nay nâng lên mức 30 triệu USD .
ở Trung Quốc, từ 1996 đã tiếp thu nghĩa vụ trong điều khoản thứ 8 của hiệp định
tổ chức tiền tệ quốc tế, bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi tự do đồng nhân dân tệ
Đại hội XV 1997
Với tư thế mới Trung Quốc càng tích cực hơn nữa đi ra thế giới hoàn thiện hơn
bố cục mở của đối ngoại. Trong báo cáo ở Đại hội XV <1997> tổng bí thư Giang
Trạch Dân đã nhấn mạnh “ mở cửa đối ngoại là một quốc sách lâu dài của TQ”.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, khoa học kĩ thuật Trung Quốc cần
phải tích cực hơn nữa để đi ra thế giới hoàn thiện cục diện đối ngoại trên phương
vị nhiều tầng nấc mở rộng nhiều lĩnh vực, phát triển kinh tế loại hình mở cửa,
tăng cường sức cạnh tranh quốc tế, thúc đẩy việc tôi ưu hoá cơ cấu kinh tế và
nâng cao tố chất kinh tế quốc dân,
Báo cáo cũng đề ra biện pháp nhằm tăng cường hơn nữa trình độ mở cửa đối
ngoại:
Cần phải nâng cao hiệu quả kinh tế làm trọng tâm, cố gắng việc mở cửa buôn bán
đối ngoại: hàng hoá và dịch vụ, tối ưu hoá cơ cấu xuất nhâpk khẩu . Kiên trì chiến
lược chiến thắng trong cạnh tranh bằng chất lượng và đa dạng hoá thị trường,
tích cực khai thác thị trường quốc tế.
Giảm hơn nữa mức thuế quan, thu hút kĩ thuật tiên tiến và thiết bị then chốt, đi
sâu vào cải cách thể chế mậu dịch đối ngoại hoàn thiện hơn nữa môi trường chính
sách, mở rộng quyền kinh doanh mậu dịch đối ngoại của xí nghiệp, hình thành sự
6
cạnh tranh bình đẳng tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thông mậu
dịch nhiều bên trên phạm vi toàn cầu.
Cần phải sử dụng vốn nước ngoại hợp lí có hiệu quả. Từng bước thúc đẩy mở cửa
đối ngoại ngành dịch vụ. Đưa vào pháp luật để bảo vệ quyền lợi của xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện đãi ngộ quốc dân, tăng cường dẫn dắt, giám
sát, quản lí.
Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, có thể phát huy ưu thế tương đối của Trung
Quốc. Cần sử dụng tốt hơn hai thị trường , hai nguồn vốn trong và ngoài nước.
Hoàn thiện hơn nữa và thực thi pháp luật, pháp quy liên quan tới kinh tế buôn bán
đối ngoại.
Xử lí đúng mối quan hệ giữa mở cửa đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh
sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
Cần phải xây dựng đặc khu kinh tế và khu mới Phố Đông Thượng Hải tôt hơn
nữa. Khuyến khích các đặc khu này cần phải phát huy tác dụng: làm mẫu, lan
toả , lôi kéo đối với cả Trung Quốc, tiếp tục phát triển hơn nữa các mặt tạo ra thể
chế mới, nâng cấp ngành nghề,mở rộng cửa
II. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH MỞ CỬA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI
NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC
1.Tình hình ngoại thương:
Tính đến cuối 1997 Trung Quốc đã có quan hệ buôn bán với 227 nước và khu
vực trên thế giới, tăng 177 nước và khu vực so với trước khi thực hiện cải cách
mở cửa. Năm 1978, tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc mới chỉ đạt
20,6 tỷUSD, đến 1984 đã vọt lên 50 tỷ USD, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1978.
Bốn năm sau, năm 1988 tổng kim ngạch ngoại thương tăng gấp đôi năm 1984,
đạt 100 tỷ USD, năm 1994 ngoại thương Trung Quốc lại nêu kỉ lục mới, gấp đôi
năm 1988, đạt 200 tỷ USD, năm 1997, con số đạt tới 235,1 tỷ USD. Tính đến
7
năm đó mức tăng bình quân hàng năm của kim ngạch ngoại thương Trung Quốc
đạt 15,4 % trong thời kì mở cửa. Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ Châu á, ngoại thương Trung Quốc giảm nhẹ với mức 0.4 % so
với năm trước, tổng kim ngạch đạt 324 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 283,8 tỷ
USD tăng 0,5 %, nhập khẩu đạt 140,2 tỷ USD giảm 1,5%. Như vậy, kim ngạch
xuất nhập khẩu của TQ đã tăng xấp xỉ gần 20 lần trong 20 năm đưa Trung Quốc
từ vị trí thứ 32 lên vị trí cường quốc ngoại thương thứ 10 trên thế giới, chỉ sau:
Mỹ, Đức, Nhât, Anh, Pháp, ý, Canada, Hồng Kông và Hà Lan,từ chỗ chỉ chiếm
0,75% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới tới chỗ chiễm tới 3,3%. Ngoại
thương mấy năm gần đây liên tục xuất siêu, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng
lên nhanh chóng, năm 1979 mới chỉ có 480 triệu USD đến năm 1998 đã đạt 145
tỷ USD , đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Nhật Bản
Trong sự phát triển chung của nền kinh tế , kinh tế đối ngoại của TQ đã đạt được
thành quả nhất định, trước hết là do kết quả sản xuất của các ngành cùng với các
chính sách nhất quán và ngày một đồng bộ bắt kịp với xu thế hội nhập với thế
giới.
Trước hết là đẩy mạnh xuất nhập khẩu; xuất nhập khẩu đều tăng nhanh, đến
năm1994 đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nhập siêu sang xuất siêu và thay
đổi cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu. Thật vậy, nếu năm 1952 chỉ xuât được 0.8 tỷ
USD thì năm 1998 đã xuất được 182,4 tỷ USD, cũng thời gian này, nhập từ 1,12
tỷ USD lên 140,5 tỷ USD, cơ chế hàng công nghiệp chế biến trong giá trị xuất
khẩu từ 49% năm 1980 tăng lên trên 86% năm 1995, thị trường xuất nhập khẩu
của Trung Quốc trải khắp các quốc gia trên thế giới.
Năm 1997 hoạt động ngoại thương Trung Quốc đã đạt được kết quả rất khả quan
xuất khẩu đạt 182,7 tỷ USD xếp thứ 10 nhập khẩu 142,3 tỷ USD xếp thứ 12 thế
giới.
8
Nền ngoại thương của Trung Quốc còn đạt được sự cải thiện rõ rệt về cơ cấu
hàng hoá xuất nhập khẩu, từ chỗ xuất nhập khẩu hàng cấp thấp là chính chuyển
sang xuất nhập khẩu hàng thành phẩm công nghiệp là chính.
a.Cơ cấu xuất khẩu:
Có thể chia cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Trung Quốc thành 4 loại như
sau:
• Các loại sản phẩm sơ cấp mà chủ yếu là nông sản và khoáng sản
• Các sản phẩm công nghiệp nhẹ, bán thành phẩm sử dụng nhiều lao động
• Sản phẩm công nghiệp của các ngành sử dụng vốn tập trung(công nghiệp
nặng, hoá chất )
• Sản phẩm sử dụng kĩ thuật cao công nghệ tiên tiến (điện tử, máy vi tính )
Trước kia hàng xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc là nguyên liệu khô và các
thành phẩm sử dụng nhiều lao động(nhóm các hàng truyền thống loại 1 và 2)
như : than , dầu mỏ, quần áo, đồ chơi trẻ em, hàng đệt may và thủ công mỹ nghệ.
Hiện nay, Trung Quốc đã coi trọng và bắt đầu tăng nhanh xuất khẩu các thành
phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao hơn(nhóm 2-loại 3 và 4) như các sản phẩm hóa
chất, điện tử, máy tính tỉ trọng các thành phẩm công nghiệp nói chung trong
tổng xuất khẩu đã tăng từ 40,5% năm 1978 lên gần 80% trong những năm đầu
thập kỷ 90.
Về phương châm chiến lược, Trung Quốc chia chiến lược xuất khẩu của họ thành
3 giai đoạn:
• Giai đoạn 1: chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm thô, sơ cấp sang xuất
khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động.
• Giai đoạn 2: chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ và
bán thành phẩm sử dụng nhiều lao động sang xuất khẩu các thành
9
phẩm công nghiệp cần nhiều vốn mà chủ yếu là các sản phẩm công
nghiệp nặng –hóa chất.
• Giai đoạn 3: Tập trung vào coi trọng xuất khẩu các sản phẩm sử dụng
kĩ thuật cao, công nghệ tiên tiến.
Trong những năm tới cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc vẫn là các sản phẩm
công nghiệp nhẹ , công nghiệp dệt và nguyên liệu. Tuy nhiên, xét theo khả năng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các cơ sở chế tạo máy, tỷ trọng may móc thiết
bị xuất khẩu sẽ tăng đáng kể.
Hiện nay Trung Quốc đang cố gắng điều chỉnh cơ cấu hàng hoá xuất khẩu để
chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm dệt, công nghiệp nhẹ sử dụng vốn tập trung kết
hợp từng bước tăng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao. Thực
hiện mục tiêu này, Trung Quốc đã đề ra các biện pháp như sau:
1. Nâng cao trình độ gia công các sản phẩm sơ cấp, coi trọng xuất khẩu
những hàng hoá có độ tinh xảo cao sử dụng nhiều lao động, những sản
phẩm nông lâm nghiệp, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá thành phẩm
2. Tích cực sử dụng kĩ thuật, tri thức, công nghệ mới tăng xuất khẩu những
hàng hoá là sản phẩm của ngành công nghiệp nặng – hoá chất, sử dụng kĩ
thuật cao và đổi mới thiết bị của ngành dêt, công nghiệp nhẹ, chế biến
lương thực, thực phẩm, nâng cao chất lượng và trình độ kĩ thuật của các
hàng hoá xuất khẩu truyền thống.
a. Về xuất khẩu:
Năm 1997, tỷ trọng hàng thành phẩm công nghiệp trong hàng xuất khẩu của
Trung Quốc đã tăng từ 49,7 % năm 1980 lên 86,9 % vào năm 1997, nghĩa là
tăng tới 37 điểm phần trăm. Riêng hàng cơ điện đã trị giá 59,32 tỷ USD chiếm
32,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Công cuộc mở cửa và giao lưu buôn bán của
Trung Quốc ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đối với đời sông kinh tế xã
hội của Trung Quốc . Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đã
10
tương đương với 36% giá trị tổng sản phẩm trong nước.Cơ cấu hàng xuất nhập
khẩu và cơ cấu thị trường có nhiều thay đổi rõ rệt: số lương hàng thành phẩm
công nghiệp xuất khẩu tăng nhanh nhất là những mặt hàng truyền thống như
quần áo , giày dép, dụng cụ thể thao và các loại hàng thủ công mỹ nghệ
những mặt hàng này tỉ lệ xuất khẩu mỗi năm tăng 18,5%. Năm 1980 những
mặt hàng nêu trên chiếm 25% trong tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu. Chỉ riêng
mặt hàng giầy dép của Trung Quốc xuất sang thị trường tư bản chủ nghĩa( Mỹ,
Nhật, ý, Pháp) đã trị giá 160 triệu USD.
Việc xuất khẩu than và dẩu mỏ tăng nhanh chiếm 21,5% trong tổng giá trị
hàng hoá xuất khẩu. Hoạt động này thu được kết quả trên cơ sở tăng lượng khai
thác và mở rộng thị trường buôn bán. Năm 1987, Trung Quốc đã xuất 27,2 triệu
tán dầu,13,5 triệu tấn than ,trong đó 80% là sang Nhật, 20%, sang Mỹ. Bên cạnh
đó, Trung Quốc còn xuất một số loại nông phẩm sang thị trường Mỹ .úc, Pháp
b.Về nhập khẩu: Trong những năm đầu thực hiện mở cửa, Trung Quốc không
thực hiện tự do nhập khẩu nhưng chính sách thương mại của Trung Quốc lại là
nhằm thúc đẩy tiến bộ KHKT và phát triển kinh tế trong nước tăng khả năng xuất
khẩu, tiết kiệm ngoại tệ nên TQ phải lựa chọn những khoản mục nhập khẩu phù
hợp, từ đó duy trì sự cân bằng thương mại.
Chính sách của TQ là ưu tiên nhập khẩu những laọi máy móc và kỹ thuật tiên tiến
phục vụ công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế đặc biệt để đáp ứng các yêu cầu phát
triển về năng lượng, giao thông vận tải và xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra
Trung Quốc cũng coi nhập khẩu các loại nhu yếu phẩm và những loại hàng hoá
mà thị trường trong nước thiếu hụt. Bên cạnh đó các chính sách thương mại cũng
thường xuyên được điều chình để thay đổi cơ cấu nhập khẩu, làm cho cơ cấu này
trở nên hợp lý hơn.
11
Trong những năm 70, cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đối ngoại và
nhu cầu phát triển kinh tế quốc dân, khối lượng nhập khầu của Trung Quốc tăng
rất nhanh, đặc biệt trong ba năm liên tiếp 1977-1979.Tổng lượng nhập khẩu của
ba năm này bằng một nửa giá trị nhập khẩu trong cả thập kỷ 70. So với thập kỷ
60, tỷ lệ nhập khẩu tư liệu sản xuất tăng từ 71,6% lên 81%. Tương ứng tỷ lệ nhập
khẩu hàng tiêu dùng giảm từ 28,4% xuống còn 19%. Trong thời gian này, ngoài
máy móc thiết bị, TQ còn nhập nhiều loại nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng khác
như: thép, nhôm, đồng, cao su,hoá chất công nghiệp, gạo, bông để phát triển
kinh tế phục vụ chương trình “ Bốn hiệ đại hoá”. Từ năm 1972 đến năm 1979,
TQ đã nhập khẩu 367 lại hang háo với tổng giá trị 13,56 tỷ USD.
Sang thập kỷ 80, cả nước TQ đắm mình trong công cuộc cải cách và xây
dựng kinh tế, với chính sách mở cửa, hoạt động ngoại thương của TQ bước vào
một thời kỳ mới đầy sôi động. Từ năm 1980 đến 1984, khối lượng nhập khẩu của
Trung Quốc tăng 30%. Trong 5 năm (1986-1990) khối lượng nhập khẩu đạt
253,82 tỷ USD, trung bình mỗi năm tăng 15%. Trrong thời gian này, Trung Quốc
rất coi trọng thu hút vốn và kỹ thuật hiện đậi , do vậy nhập khẩu từ các nước công
nghiệp phát triển như : Anh, Pháp, Mỹ,Nhật, Đức chiếm hơn 80% tổng khối
lượng nhập khẩu của Trung Quốc trong những năm 80.
Năm 1996 Trung Quốc nhập khẩu với tổng giá trị là 138,8 tỷ USD, trong đó
tỷ lệ nhập khẩu hàng sơ chế chiếm 28,3%, hàng chế tạo chiếm 81,7%. Trong
hàng chế tạo, nhập khẩu máy móc và thiết bị vận tải chiếm 48,3%.
Nhìn chung hầu hết các sản phẩm nhập khẩu của Trung Quốc trong những
năm đầu thập kỷ 90 đề liên quan đến sử dụng kĩ thuật nước ngoài. Xu hướng này
nằm trong chủ trương coi trọng nhập khẩu kỹ thuật phục vụ các ngành năng
lượng , thép, máy móc, và công nghiệp hoá chất sẽ tiếp tục được duy trì trong
những năm cuối thập kỷ 90 này.
12
FDI: Muốn phát triển kinh tế Trung Quốc đã thực hiện giải pháp tích cực là tăng
đầu tư. Trong nhiều năm gần đây mức độ tăng vốn đầu tư trung bình hàng năm
xấp xỉ 10%, năm 98 lên tới 15% và dự kiến năm 2000 là 13%. Từ năm 1978 với
Luật đầu tư nước ngoài và các chính sách đồng bộ(theo xếp hạng của thế giới
năm 1999 Trung Quốc đứng thư hai trên toàn thế giới về tạo cơ hội thuận lợi thu
hút vốn đầu tư nước ngoài,sau Mỹ), đã thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước
ngoài, tính đến cuối tháng 3/1999 đã có 238.228 dự án FDI được cấp giấy phép ,
với tổng vốn đầu tư lên tới 581,2 tỷ USD(năm cao nhất là năm 1993 vối số vốn
FDI lên tới 111 tỷ USD).
Vai trò của FDI ngày càng quan trọng , riêng năm 1997 vốn đầu tư nước
ngoài vào TQ đã góp chiếm 15% tài sản cố định, giá trị sản xuất cỉa các cơ sở có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 19% giá trị sản xuất của ngành công nghiệp,
đống góp hơn 13% thuế thu từ các ngành công nghiệp và thương mạu giải quyết
công ăn việclàm cho 17,5 triệu người, bằng 10% lao động trong khu vực phi nông
nhgiệp. Mặc dù tỷ lệ vốn đầu tư thực hiệnkhá cao ,gần 50%; có luật và chính sách
đầu tư nhất quán nên thu hút được vốn của người Hoa ở Hồng Kông, Ma cao,Đài
Loan lên tới 62% tổng vốn đầu tư nước ngoài và trên 64% vốn đầu tư thựchiện
trong cả thời kỳ 1979-1997. Tuy nhiên một số năm gần đây đầu tư nước ngoài
giảm sút. Năm 1998 FDI* chỉ đạt 54 tỷ USD. Theo tính toán và công bố của Bộ
ngoại thương và kinh tế đối ngoại, từ nay đến năm 2005 Trung Quốc dự tính cần
cầu đầu tư vào trong thiết bị khoảng 1000 tỷ USD để phát triển kinh tế. Đây là
một cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc .
Các nhà đầu tư quốc tế nhận xét răng, cách đây 20 năm , Trung Quốc hoàn
toàn là một “mảnh đất hoang” về đầu tư quốc tế. Song nhờ cố gắng mở rộng
đường để thu hút vốn đầu tư nước ngoài đến nay Trung Quốc đã trở thành mảnh
đất mầu mỡ cho các nhà đầu tư ChâuÁvà thế giới. Từ năm 1979 đến năm 1997,
Trung Quốc đã thu hút được một lượng đầu tư từ bên ngoài đạt 348,35 tỷ USD.
13
Trong đó 63% là FDI , đạt trên 220 tỷ USD từ 100 nước và khu vực vào trên 20
ngành nghề. Năm 1998, dù có chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ
ChâuÁnhưng lượng đầu tư vào Trung Quốc vẫn tăng, tuy mức tăng không lớn
như mấy năm trước. Các hợp đồng trị giá 52,1 tỷ USD tăng 2/5 so với năm 1997;
mức sử dụng thực tế là 58,9 tỷ USD , trong đó FDI là 45,6 tỷ USD tăng 0,7%.
Nhờ những cố gắng trong thu hút vốn nước ngoài từ năm 1993 Trung Quốc trở
thành nước đứng đầu các nước đang phát triển, đứng thứ 2 sau Mỹ và giữ được vị
thế đó trong 6 năm liền.
Sử dụng cốn đầu tư trực tiếp đã trở thành một bộ phận quan trọng, gắn liền với
nềnkinh tế quốc dân của Trung Quốc. Nhất là từ sau 1992 tới nay, lĩnh vực thu
hút FDI ở Trung Quốc không ngừng được mở rộng, quy mô không ngừng được
gia tăng,trình độ khôngngừng được nâng cao. Từ năm 1993-1997 trong 5 năm
liền Trung Quốc là nước thu hút vốn FDi nhiều nhất trong các nước đang phát
triển và thứ hai toàn cầu sau Mỹ. Tính đến cuối năm 1998 đã có 324.712 xí
nghiệp có vốn FDI vào Trung Quốc đã được phê chuẩn. Tổng số vốn FDI thu hợp
đồng là 572,52 tỷ USD, tổng số vốn doanh nghiệp hải ngoại đầu tư trực tiếp đã
được sử dụng trên thực tế là 267,45 tỷ USD. Hiện nay có 145.000 xí nghiệp do
doanh nghiệp hải ngoại đầu tư trực tiếp đã đi vào hoạt động, số người là việc là
17,5 triệu người
Bắt đầu từ năm 1995 Trung Quốc đã thựchiện chuyển đổi từ chính sách ưu
đãi sang chính sách “ đãi ngộ quốc dân” với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và còn mở rộng cửa hơn nữa cho việc thu hút vốn.
3. Du lịch:
Du lịch- ngành “công nghiệp không khói” cũng sớm trở thành ngành mũi nhọn
để thu hút ngoại tệvà giải quyết công ăn việc làm , chưa kể còn nhằm mục đích
giới thiệu cho thế giới về một đất nưcớ có nhiều danh lam thắng cảnh, một chế độ
chính trị XHCN theo kiểu Trung Quốc. Năm 1980 Trung Quốc mới có 5,7 triệu
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét