Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

VẬN DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA M.PORTER ĐỂ PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO THÁI LAN

I. Khái quát chung
1. Cơ sở lý thuyết
Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc
gia mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế
tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực
tiếp. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có được “Quyền lực thị
trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh
quốc gia thường bị hiểu nhầm với lợi thế so sánh. Thực chất lợi thế so sánh chỉ
là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế một khía cạnh nào đó của một quốc gia
hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó, như những điều kiện tự nhiên, tài
nguyên hay con người. Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường được coi
là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy nhiên đây mới chỉ là cơ sở
cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh đảm bảo cho
sự thành công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả năng cung
cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như: khách hàng, nhà đầu tư
hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho doanh nghiệp.
Lý thuyết cạnh tranh quốc gia giải thích tại sao một số quốc gia lại có
được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm( có lợi thế cạnh tranh
một số sản phẩm). Lý thuyết này được xây dựng dựa trên cơ sở lập luận rằng
khả năng cạnh tranh của một nền công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả
năng sáng tạo và đổi mới của ngành.Theo ông, khi thế giới cạnh tranh mang tính
chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối
hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia
được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên thương
trường quốc tế. Theo lý thuyết này lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở
sự liên kết của bốn nhóm yếu tố , tao thành mô hình kim cương ( diamond) theo
như sơ đồ sau:

5
Trong đó, bốn yếu tố tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả
năng cạnh tranh quốc gia bao gồm: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về
cầu; các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và môi
trường cạnh tranh ngành. Ngoài ra còn có hai yểu tố khác có thể tác động tới
bốn yếu tố cơ bản trên, đó là : chính sách của Chính phủ và cơ hội. Michael
Porter cho rằng thành công hay hay thất bại của một quốc gia trong một ngành
công nghiệp cạnh tranh quốc tế phụ thuộc vào sự hiện diện và mức độ tinh vi
của các nhân tố quyết định trong “mô hình kim cương” và một quốc gia chỉ
thành công khi nó khai thác được những thuận lợi và nâng cấp được lợi thế để
vượt qua những bất lợi về các nhân tố. Lợi thế cạnh tranh lâu dài chỉ có thể đạt
được nhờ đổi mới và nâng cấp liên tục lợi thế cạnh tranh.
2. Tổng qua về Thái Lan
Vương quốc Thái Lan (tiếng Thái: ราชอาณาจกรไทย Racha-anachakra
Thai), thường gọi là Thái Lan, là mộtquốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, phía
Bắc giáp Lào và Myanma, phía Đông giáp Lào và Campuchia, phía Nam giáp
vịnh Thái Lan và Malaysia, phía Tây giáp Myanma và biển Andaman. Thái Lan
là một quốc gia quân chủ lập hiến đứng đầu là vua. Thái Lan có diện tích
513.000 km2 (198.000 dặm vuông) lớn thứ 50 trên thế giới và dân số khoảng 64
triệu người đông thứ 21 trên thế giới. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Thái.Từ
6
Chiến lược, cơ cấu và môi
trường cạnh tranh ngành
Điều kiện về cầuĐiều kiện các yếu
tố sản xuất
Các ngành hỗ trợ và
có liên quan
Chính phủ
Cơ hội
năm 1985 đến 1995, kinh tế Thái Lan phát triển nhanh và trở thành nước công
nghiệp mới trong đó du lịch có những điểm đến nổi tiếng như Pattaya, Băng Cốc
và Phuket và xuất khẩu đóng góp quan trọng vào nền kinh tế.
3. Đôi nét về tình hình sản xuất chế biến và xuất khẩu gạo của Thái
Lan
- Về sản xuất: Thái Lan có 3,7 triệu hộ gia đình, chiếm 66% của 5,6 triệu hộ
nông dân trồng lúa trong cả nước; với diện tích trồng lúa khoảng 62-66 triệu
rai, đạt sản lượng là 24 – 27,2 triệu tấn thóc/năm, chiếm 4% sản lượng thế
giới. 80% diện tích trồng lúa nằm ở khu vực có mưa.
- Về chế biến: Thái Lan có khoảng 40.000 nhà máy xay sát thuộc cỡ vừa và
nhỏ nằm rải rác ở các vùng nông thôn.
- Về thị trường trong nước: Mỗi năm Thái Lan tiêu dùng nội địa khoảng 13,6-
14,2 triệu tấn thóc, trong đó 10-10,3 triệu tấn dùng trong tiêu dùng trực tiếp,
1-1,1 triệu tấn làm giống và chế biến thức ăn gia súc, còn lại để chế biến
khác.
- Thị trường nước ngoài: Thái Lan có thu nhập từ việc xuất khẩu gạo là 70-80
tỷ Baht ( tương đương 1,583 triệu USD), đứng thứ nhất trên thế giới, chiếm
27% thị phần gạo trên thế giới. Mỗi năm Thái Lan xuất khẩu 5,6-7,5 triệu tấn
gạo, trong đó gạo có chất lượng tốt chiếm 56,7%, chất lượng trung bình
chiếm 6,6%, gạo chất lượng thấp 18,5%, gạo sấy 28,1%. Dự kiến năm 2004
Thái Lan sẽ xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn gạo.
II. Các nhóm yếu tố trong mô hình kim cương của M. Porter
1. Điều kiện các yếu tố sản xuất.
Dựa vào lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia của M. Porter,ta có thể
giải thích tại sao Thái Lan lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất gạo
đồng thời là quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo thông qua việc phân tích
nhân tố thứ nhất trong khối kim cương của M.Porter là điều kiện các yếu tố sản
xuất.
Sự phong phú dồi dào của các yếu tố sản xuất có vai trò nhất định đối với
lợi thế cạnh tranh quốc gia, Thái Lan có lợi thế hơn khi sản xuất và xuất khẩu
7
lúa gạo sử dụng nhiều các yếu tố đầu vào mà quốc gia có nhiều. Trước hết phải
kể đến nhóm các yếu tố cơ bản bao gồm: đất đai, khí hậu, thủy lợi, giống lúa,
phân bón, lao động giản đơn.
• Vị trí địa lý
Thái Lan nằm trong khu vực Đông Nam Á
với diện tích khoảng 514000 km2 trên bề
mặt Trái Đất với tổng diện tích đất khô là
511770 km2 và diện tích đất ngập nước là
2230 km2. Thái Lan có hai hệ thống sông
chính là sông Chao Phraya và sông Mê
Kông ngoài ra còn có sông Wang, Nan,
Yom và Ping thuộc hệ thống song Chao
Phraya cung cấp nguồn nước cho sản xuất
nông nghiệp.
Như vậy, với diện tích rộng lớn đông
bằng cùng với hệ thống sông ngòi dẫn
nước quanh năm thì Thái Lan là đất nước
có vị trí địa lý thuận lợi để sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là với lúa nước. Từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh với các nước lân
cận như Việt Nam, Mianma, Ấn Độ…
• Đất đai
Thái Lan có tổng diện tích đất khoảng 51,4 tiệu ha, trong đó diện tích đất
trồng lúa chiếm 9,6 triệu ha mà phần lớn nằm trong khu vực Đông Bắc với diện
tích 4,8 triệu ha. Khoảng hai phần năm diện tích của Thái Lan được bao phủ bởi
các dãy núi, đồi núi cản trở việc trồng trọt. Tuy nhiên, theo thông tin chi tiết đã
được thông qua các cuộc điều tra thì phải có khoảng một phần mười trong số đó
được chuyển đổi với mục đích nông nghiệp. Hiện nay, đất canh tác chiếm
khoảng 34% diện tích đất trồng trọt, đất trồng cây lâu năm chiếm 6%, đồng cỏ
vĩnh viễn là 2%, rừng và đất trồng rừng chiếm 26% còn lại 32% là đất phục vụ
mục đích khác. Từ những số liệu trên có thể thấy được phần lớn diện tích đất
nông nghiệp ở Thái Lan được sử dụng để trồng lúa.
8
• Khí hậu
Khí hậu Thái Lan là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết nóng với nhiệt
độ trung bình hàng năm là 28,1
o
C ( từ 9,9 – 39,9
o
C). Lượng mưa trung bình
hàng năm tại Bangkok là 1418 mm (từ 870 – 2072 mm), 85,8% tập trung từ
tháng 5 đến tháng 10. Thái lan có bốn mùa rõ rệt: Mùa khô kéo dài từ tháng 1
đến tháng 2, mùa nóng từ tháng 3 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 6 đến tháng
10, mùa mát từ tháng 11 đến tháng 12. Trong đó mưa nhiều nhất (90%) xảy ra
vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình của thời tiết Thái Lan cao hơn Việt Nam,
nhiệt độ thường từ 32
o
C vào tháng 12 và lên tới 35
o
C vào tháng 4 hàng năm.
Đây là khí hậu đặc trưng của Đông Nam Á giúp Thái Lan phát triển nông
nghiệp các cây nhiệt đới, đặc biệt sản xuất lúa gạo có lợi thế cạnh tranh cao.
• Thủy lợi
Hai hệ thống sông chính của Thái Lan là Chao Phraya và Mê Kông.Hai
con sông này cũng hỗ trợ thủy lợi cho nền kinh tế nông nghiệp của Thái Lan.
Ngoài hai hệ thống sông lớn còn có một số hệ thống sông và các sông khác từ
các vùng đất trong phạm vi biên giới của Thái Lan vào Vịnh Thái Lan và biển
Andama.Các lưu vực sông Chao Phraya là con sông có hệ thống thủy lợi lớn
nhất ở Thái Lan, bao gồm khoảng 35% đất của quốc gia, và thoát nước có diện
tích 157.924 km ². Sông Mê Kông là con sông dài thứ 11 trên thế giới và lớn
thứ 12 theo thể tích (xả 475 km
3
nước hàng năm). Chiều dài ước tính của sông là
4880 km và tưới tiêu cho gần 810 000 km
2
. Mê Kông là hệ thống sông lớn thứ
hai sau sông Chao Phraya.
• Giống lúa
Thái Lan có nguồn gen dồi dào về giống lúa. Ngân hàng gen có hơn
24.000 dòng/giống. Gần 100 giống lúa cải tiến đã được công nhận đưa vào sản
xuất. Giống lúa nổi tiếng nhất là KHAO DAWK MALI 105 (HOM MALI) hay
còn gọi là HƯƠNG NHÀI (JASMINE) có phẩm chất ngon, mềm và thơm.
• Phân bón
Hiện nay, phân bón hóa học được sử dụng rộng rãi cho sản xuất lúa gạo ở
Thái Lan. Năng suất tối đa nhận được từ từng chủng loại phụ thuộc vào độ màu
mỡ của các loại đất. Kết quả cũng cho thấy năng suất tối đa từ đất sét và đất sét
9
trộn lớn hơn so với cát pha sét. Một số thí nghiệm được thực hiện ở Thái Lan
hơn 20 năm để nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón hóa học và phân trộn
rơm rạ dựa trên năng suất lúa, thấy rằng sản lượng nhiều như nhau cho tất cả các
phương pháp điều trị trong ngắn hạn, nhưng phân trộn rơm nếu liên tục áp dụng
sẽ mang lại một sự cải thiện dần dần tính chất của đất lúa và tăng năng suất
đáng kể. Ngoài ra, một nghiên cứu so sánh các tính chất của đất theo phân trộn
rơm rạ và phân bón hóa học được thực hiện trong dài hạn. Đất nhận được phân
trộn rơm không chỉ cần có mật độ thấp, mà còn có hàm lượng chất hữu cơ đáng
kể.
• Lao động phổ thông
Thái Lan vốn là một nuớc nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong hàng thập kỷ
qua có vai trò quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm chất lượng
cuộc sống cho người dân.
Bên cạnh các yếu tố đầu vào cơ bản còn phải kể đến các yếu tố đầu vào cao cấp
bao gồm hệ thống hạ tầng và lao động có tay nghề. Các yếu tố này hiện đang là
những đầu vào quan trọng nhất giúp ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo tạo
được lợi thế cạnh tranh trình độ cao, đó là lợi thế cạnh tranh dựa vào tính chất
độc đáo sản phẩm và công nghệ.
• Hệ thống hạ tầng
Thái Lan khuyến khích nông dân gieo trồng lúa vụ 3 trong năm trên diện
tích canh tác có thể thực hiện được, áp dụng các máy móc trang thiết bị khoa
học tiên tiến hiện đại thay thế lao động chân tay để góp phần chuyên môn hóa
sản xuất làm tăng năng suất lúa trên cùng một diện tích canh tác. Nhà nước Thai
Lan có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi
phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất
canh tác trên toàn quốc góp phần nâng cao năng suất lúa và cây trồng trong sản
xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các
thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp trên cả nước. Nhằm mục tiêu
phát triển dài hạn, Chính phủ Thái Lan có kế hoạch hiện đại hóa ngành nông
nghiệp, đồng thời thúc đẩy sản xuất lương thực thự phẩm (đặc biệt là lúa gạo),
10
các nguồn năng lượng thay thế và áp dụng các chính sách mới để cải thiện hiệu
quả sự dụng đất trong cả nước.
• Lao động có tay nghề
Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng
một số chiến lược như: Tăng cường vai trò các cá nhân và các tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của
từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn
trong. lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội
cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro
và thiết lập hệ thống bảo đảm rủi ro cho nông dân. Vì vậy, nông dân chuyên
nghiệp tăng 19,5% trong tổng số nông dân trong năm 2004
Tóm lại xét về khía cạnh điều kiện các yếu tố sản xuất thì Thái Lan không
chỉ tận dụng tốt những ưu đãi của tự nhiên như là những yếu tố cơ bản mà còn
tự trang bị, nâng cao những yếu tố đầu vào cao cấp. Điều này một phần lý giải
cho những lợi thế của ngành lúa gạo Thái Lan trên trường quốc tế.
2. Nhu cầu trong nước
Thông qua các tác động tĩnh và động nhu cầu trong nước xác định mức đầu
tư, tốc độ và động cơ đổi mới của các doanh nghiệp trong nước. Ba khía cạnh
của nhu cầu trong nước có ảnh hưởng lớn tới lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp là: bản chất của nhu cầu, dung lượng và mô hình tăng trưởng của nhu cầu
và cơ chế lan truyền nhu cầu trong nước ra các thị trường quốc tế.
Với mặt hàng gạo, đây là một loại lương thực thiết yếu trong cuộc sống
người dân Thái Lan. Cơm-loại thức ăn được nấu ra từ gạo là thức ăn hàng ngày
không thể thiếu được trong bữa cơm của người Thái. Vì vậy nhu cầu nội địa
luôn ở mức cao. Dù giá gạo có tăng cao thì người dân Thái Lan cũng sẽ không
dừng được việc tiêu dung mặt hàng chuyển ngay lập tức sang tiêu dung mặt
hang khác được mà chỉ có thể tiêu dung mặt hang gạo với số lượng thấp hơn
thôi.
Mặt hàng gạo là mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống nên mức độ đòi hỏi của
người dân về mặt hàng này cũng dễ tính. Nhưng cuộc sống ngày càng phát triển,
đời sống người dân Thái cũng không ngừng nâng cao và xu hướng muốn “ăn
11
ngon mặc đẹp” là điều đương nhiên. Mong muốn được ăn những loại gạo ngon
hơn là điều bình thường và điều đấy sẽ tạp áp lực hơn cho các nhà quản lý,
nghiên cứu tìm ra những loại giống lúa mới ngon hơn đạt hiệu quả cao hơn để
áp dụng trong trồng trọt, sản xuất.
3. Ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan
• Chọn tạo giống
Việc cải tạo giống lúa đã được nông dân bản xứ thực hiện qua nhiều thế
kỷ do họ đã trồng nhiều giống địa phương trên cùng một lô ruộng cho phép sự
lai tạp tạo ra một dạng cây mới, rồi chọn lọc cẩn thận những con lai tốt nhất để
gieo trồng trong vụ sau.
Năm 1907, cuộc đấu xảo giống lúa đầu tiên được tiến hành tại Thái Lan
đã thúc đẩy công tác chọn tạo giống lúa. Năm 1916, trại thí nghiệm lúa đầu tiên
được thành lập và chương trình lai tạo giống cũng như các công tác nghiên cứu
mọi mặt đã được thiết lập.
Hiện nay, công tác chọn tạo giống lúa là một trong những nhiệm vụ chính của
Phòng Nghiên cứu & Phát triển Lúa và 27 Trung tâm Nghiên cứu Lúa trực
thuộc. Phòng Nghiên cứu & Phát triển Lúa cũng chịu trách nhiệm sản xuất 2500
tấn hạt giống lúa nguyên chủng hàng năm
Quy trình sản xuất lúa giống để cung cấp cho người nông dân như sau:
12
•Thủy lợi và phân bón
Theo bộ trưởng nông nghiệp Thai Lan Somsak Thepsuthin: “mở rộng hệ
thống tưới tiêu và phục hối độ màu mỡ của đất là phương tiên then chốt để đạt
được những mục tiêu trên”. Bộ nông nghiệp Thái Lan đã quyết định chi 2 tỉ baht
cho những dự án tưới tiêu nhằm đẩy mạnh sản lượng lúa ở những vùng thiếu
nước và cho nông dân vay 10 tỉ để nuôi gia cầm. Việc nuôi gia cầm có thể giảm
giá thành sản xuất lúa vì phân gia cầm có thể thay thế phân hóa học.
• Công nghiệp chế biến, công nghiệp dich vụ và sản xuất đồ gia
dụng
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã tập
trung phát triển các ngành mũi nhọn, như: thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế
biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Một trong những chính
sách đem lại thành công cho ngành công, nông nghiệp nông thôn của Thái Lan
đó là, Thái Lan đã chủ động mở cửa thị trường khi thích hợp. Thái Lan đã có
13
KHU VỰC NHÀ NƯỚC KHU VỰC TƯ NHÂN
- Phòng Nghiên cứu
& phát triển lúa
- Các trường ĐH
-Các viện Nghiên
cứu
Phòng Nghiên cứu
& Phát triển lúa
Phòng lúa giống
- Phòng Lúa giống
- Phòng Khuyến
nông & Khuếch
trương Lúa gạo
- Sở Khuếch trương
Hợp tác xã
Chọn tạo giống
Hạt giống siêu
nguyên chủng
Hạt giống
nguyên chủng
Hạt giống đăng

Hạt giống xác
nhận
Công ty/nhà sản
xuất lúa giống
Giống
lai
Giống
óp
Hạt giống thương
mại
NÔNG
DÂN
NÔNG
DÂN
HẠT
GIỐN
G
NÔNG
DÂN
TỰ
ĐỂ
DÀNH
nhiều chương trình xúc tiến đầu tư, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào liên
doanh với các nhà sản xuất trong nước, để phát triển ngành công nghiệp chế
biến thực phẩm, thông qua việc mở cửa cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào
đầu tư kinh doanh tại Thái Lan. Chính phủ Thái Lan là người đại diện, thương
lượng với các nước, để các doanh nghiệp của họ đạt được những lợi thế cạnh
tranh trong xuất khẩu thực phẩm chế biến. Bên cạnh đó, Thái Lan còn có chính
sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào cơ sở hạ
tầng như: cảng kho lạnh, sàn đấu giá, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; xúc
tiến công nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không những thế
ngành công nghiệp dịch vụ như vận tải, đóng gói bao bì và bảo hiểm cũng góp
phần thúc đẩy xuất khẩu gạo ra thị trường nước ngoài để sản phẩm đến tay
người tiêu dùng mà vẫn giữ được chất lượng tốt, hơn nữa còn giúp các doanh
nghiệp gánh được những tổn thất khi sự cố phát sinh trong quá trình vận chuyển
nhờ mua bảo hiểm cho phương tiện vận tải và hàng hóa. Những đồ gia dụng
không thể thiếu đem lại bát cơm ngon trong mỗi gia đình phải kể đến là nồi cơm
điện và bát đĩa. Đây là những mặt hàng liên quan và thúc đẩy sự phát triển của
ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo ở Thái Lan. Không chỉ vậy mặt hàng đồ gia
dụng cũng được người tiêu dùng trong nước và ngoài nước ưa chuộng nhờ mẫu
mã đẹp, nhiều tính năng hiện đại và sử dụng được lâu năm.
4. Chiến lược, môi trường cạnh tranh
Thái Lan liên tục dẫn đầu thế giới về lượng gạo xuất khẩu. Song, các nhà
xuất khẩu Thái Lan vẫn đang xây dựng nhiều chiến lược cạnh tranh với các
nước xuất khẩu gạo khác trong đó có Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan Bằng cách
tìm giải pháp nhằm hạ chi phí, giảm giá thành sản xuất lúa , sản xuất với năng
suất và chất lượng câo hơn.Theo đó, sản lượng gạo trong 5 năm tới sẽ được nâng
từ 25,8 triệu tấn/ năm lên 33 triệu tấn/ năm.
• Vai trò của Hiệp Hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan
Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan (gọi tắt là hiệp hội) là một
tổ chức nhằm giúp đỡ và ủng hộ các công ty và nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan.
Nhiệm vụ chính của hiệp hội là nghiên cứu và thu thập dữ liệu và thông tin liên
quan đến xuất khẩu gạo trên thế giới và thường xuyên cung cấp cho các thành
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét