Danh từ phá sản đợc bắt nguồn từ tiếng Latinh "RUIN" có nghĩa là là
"sự khánh tận" khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và
chi của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp và rõ nhất của sự mất
cân đối giữa thu và chi là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn phải
trả.
Hiện tợng phá sản trong nền kinh tế thị trờng của các doanh nghiệp là
hiện tợng bình thờng và là tất yếu của quy luật cạnh tranh trong sản xuất kinh
doanh.
Quy luật này diễn ra ở bất cứ quốc gia nào bất cứ doanh nghiệp nào có
cơ chế quản lý không phù hợp và không theo kịp nền kinh tế thị trờng.
Hiện tợng phá sản chính là quy luật tất yếu của sự cạnh tranh nhằm tạo
ra các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của toàn xã hội, tạo thêm không khí mới trong sản xuất kinh doanh.
Pháp luật của nhà nớc trên thế giới có nhiều chế định khác nhau về pháp
luật phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp. Thậm chí có nhiều quan
điểm khác nhau về định lợng và định tính trong việc xác định một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản doanh nghiệp hay mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn nh luật phá sản của Malayxia, Hunggari, Trung Quốc Song cho
dù có các chế định khác nhau nh vậy nhng pháp luật các nớc đều có khái
niệm thống nhất là một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh
nghiệp đó không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đợc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ
4 thông qua ngày 30 - 12 - 1993 tại Điều 2 quy định:
"Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó
khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện
pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn".
Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp nằm trong tình trạng khó khăn về tài
chính, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp không là tình
trạng nhất thời nữa, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết nhng
5
vẫn không cứu vãn đợc nguy cơ bị phá sản. Các biện pháp cần thiết mà doanh
nghiệp cần áp dụng để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn là:
a) Các phơng án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các
khoản chi phí, tìm kiếm thị trờng tiêu thụ sản phẩm.
b) Có biện pháp xử lý hàng hoá, sản phẩm vật t tồn đọng.
c) Thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng
d) Thơng lợng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ, giảm,
xoá nợ.
đ) Tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các khoản
nợ đến hạn và đầu t đổi mới công nghệ.
Nh vậy tại Điều 2 luật phá sản doanh nghiệp vẫn cha đa ra một khái
niệm tổng quát về phá sản là gì? mà chỉ đa ra khái niệm doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản doanh nghiệp bị lâm vào phá sản sẽ là đối tợng để toà
án xem xét giải quyết theo thủ tục phá sản (Thủ tục t pháp đặc biệt). Khi có
đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản vì vậy ở giác độ tố tụng chúng ta có
thể xem xét "phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt khi doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản có thể liệt kê tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản thể hiện
ở những điểm sau cụ thể sau đây:
Thứ nhất: ở thủ tục phá sản, các chủ nợ không đợc quyền xé lẻ quyền
đòi nợ của mình mà phải đồng loạt gửi giấy đòi nợ đến toà án trong một thời
gian nhất định (thời hạn là 60 ngày kể từ ngày đầu tiên đăng báo mở thủ tục
tuyên bố phá sản doanh nghiệp".
Thứ hai: Thanh toán nợ theo thủ tục này (thủ tục phá sản) chỉ đợc thực
hiện sau khi có quyết định của thẩm phán.
Thứ ba: Thanh toán nợ theo thủ tục phá sản không phải là hành vi thuộc
doanh nghiệp mắc nợ, mà thực hiện hành vi thông qua cơ quan có thẩm
quyền (cơ quan thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp).
6
Thứ t : Thanh toán theo thủ tục phá sản chỉ tiến hành trên cơ sở tài sản
còn lại của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (tài sản phá sản chia cho các
chủ nợ còn nhiều nhận nhiều, còn ít nhận ít nếu không còn các chủ nợ chấp
nhận trắng tay) và đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ nợ (các chủ nợ sẽ
đợc nhận nợ theo tỷ lệ tơng đơng mà doanh nghiệp mắc nợ nợ phải trả).
2. Khi xem xét về phá sản cũng cần phân biệt sự giống và khác
nhau giữa phá sản và giải thể.
Nếu xét về hiện tợng, hình thức bên ngoài thì giải thể và phá sản có
điểm giống nhau đó là: Đều phân chia giá trị tài sản còn lại cho các chủ nợ,
giải quyết quyền lợi cho ngời lao động Nhng về mặt bản chất giữa giải thể
và phá sản là hai chế định có sự khác nhau căn bản dới đây:
Thứ nhất: Lý do giải thể rộng hơn nhiều lý do một doanh nghiệp phá
sản. Điều này thể hiện ở chỗ nếu nh cơ sở sản xuất kinh doanh có thể chấm
dứt hoạt động của mình khi thấy mục tiêu đề ra không thể đạt đợc hoặc đã
hoàn thành song mục tiêu đó, hoặc bị thu hồi giấy phép hoạt động do vi
phạm nghiêm trọng pháp luật. Lý do phá sản chỉ có một nguyên nhân duy
nhất gây ra đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai: Nếu nh việc giải thể các cơ sở sản xuất kinh doanh là do những
ngời làm chủ doanh nghiệp tự mình quyết định hoặc do cơ quan có thẩm
quyền cho phép thành lập quyết định khi thấy không cần thiết. Việc tuyên bố
phá sản doanh nghiệp đó là nhiệm vụ và quyền hạn của toà kinh tế thuộc toà
án nhân dân cấp tỉnh.
Thứ ba: Thủ tục tiến hành giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh là thủ tục
hành chính còn thủ tục tuyên bố phá sản lại là thủ tục thuần túy t pháp, do toà
án có thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp luật phá
sản (thủ tục t pháp đặc biệt đã đợc phân tích ở trên).
Thứ t : Giải thể bao giờ cũng dẫn đến chấm dứt hoạt động và xoá tên cơ
sở sản xuất kinh doanh, trong khi đó phá sản không phải bao giờ cũng dẫn
đến hệ quả nh vậy. Một doanh nghiệp bị phá sản nhng doanh nghiệp đó vẫn
7
giữ nguyên tên doanh nghiệp của mình nếu có thể, nhãn hiệu hàng hoá vẫn
có thể đợc lu hành trên thị trờng, cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn hoạt động
bình thờng nếu nh doanh nghiệp đợc một ngời mua lại toàn bộ doanh nghiệp
bao gồm cả khoản nợ đến hạn.
Thứ năm: Nhìn chung thái độ của Nhà nớc đối với chủ sở hữu hay ngời
quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh trong hai trờng hợp trên cũng có
phân biệt. Chẳng hạn pháp luật của nhiều nớc quy định chủ sở hữu hay ngời
quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh bị phá sản không đợc hành nghề
trong một thời gian nhất định còn trong trờng hợp giải thể pháp luật không đa
ra vấn đề hạn chế quyền tự do kinh doanh (vấn đề này luật phá sản doanh
nghiệp của ta cũng đợc đặt ra tại Điều 50). Khoản 1 Điều 50 luật phá sản
doanh nghiệp quy định: Giám đốc, chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản
trị không đợc đảm đơng các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thời
hạn từ 1 - 3 năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Mục II
Giải quyết việc phá sản theo pháp luật hiện
hành (thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp)
1) Đối tợng và phạm vi điều chỉnh của luật phá sản:
Theo tinh thần của Điều 1 luật phá sản thì về nguyên tắc, mọi doanh
nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu đợc thành lập và hoạt động theo pháp luật
Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản thì đều thuộc phạm vi điều chỉnh
của luật phá sản Việt Nam. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp trực tiếp
phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng, đây là những
doanh nghiệp có liên quan đến quốc kế dân sinh, đến lợi ích của cả cộng
đồng mà trong nhiều trờng hợp phải duy trì không thể phá sản dễ dàng nh các
doanh nghiệp khác. Vì vậy khi thụ lý cũng nh giải quyết đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp đối với các loại doanh nghiệp này thì ngoài quy
8
định của pháp luật phá sản còn phải theo những quy định cụ thể cuả Chính
phủ. Trong Nghị Định 189 CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ
ban hành để hớng dẫn thực hiện luật phá sản doanh nghiệp. Tại Điều 4 Nghị
định 189 CP đã xác định những loại doanh nghiệp này trực tiếp phục vụ quốc
phòng an ninh và dịch vụ công công quan trọng bao gồm:
a) Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc
phòng, an ninh và các doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng tại các
địa bàn chiến lợc quan trọng.
b) Kinh doanh tài chính tiền tệ và kinh doanh bảo hiểm.
c) Sản xuất cung ứng điện.
d) Giao thông công chính đô thị
đ) Vận tải đờng sắt, vận tải hàng không
g) Thông tin vẫn thong.
h) Quản lý và khai thác các công trình thuỷ lợi.
i) Quản lý và xây dựng các vùng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ quốc gia
trọng điểm.
Nh vậy chỉ những doanh nghiệp hoạt động trà vào các lĩnh vực nói trên
mới đợc coi là doanh nghiệp trực tiếp phục vụ an ninh quốc phòng, và dịch
vụ công công quan trọng. Do đó khi các doanh nghiệp trên làm lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp phải báo ngay bằng văn bản cho cơ quan đã ra quyết định thành lập
doanh nghiệp. Báo cáo phải nêu rõ lý do thực trạng tài chính và các biện pháp
đã áp dụng để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
(Thủ tục giải quyết riêng biệt này sẽ đợc xem xét phần sau).
Ngoài ra việc giải quyết phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam có liên
quan đến tổ chức, cá nhân nớc ngoài cũng đợc thực hiện theo luật phá sản trừ
trờng hợp mà điều ớc quốc mà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký
kết hoặc tham gia có quy định khác (Điều 51). Đối với các cá nhân, nhóm
kinh doanh thành lập và hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2 - 3 -
9
1992 của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) không thuộc phạm vi áp
dụng của luật phá sản doanh nghiệp.
2. Những đối tợng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yều cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp.
Chỉ đinh phá sản đợc đặt ra trớc hết là nhằm bảo vệ các quyền về tài sản
của chủ nợ, việc giải quyết phá sản là giải quyết quan hệ tài sản giữa chủ nợ
và doanh nghiệp mắc nợ. Do vậy đối tợng đầu tiên có quyền làm đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp mắc nợ là chủ nợ. Tuy nhiên ở đây cần phân
biệt quyền đó của các dạng chủ nợ ; chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có
bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm 1 phần.
Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ đợc bảo đảm bằng tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ, do đó không có quyền làm đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp. Chủ nợ không có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp
mắc nợ; Chủ nợ có bảo đảm 1 phần là chủ nợ chỉ đợc bảo đảm 1 phần tài sản
của doanh nghiệp mắc nợ. Cả hai loại chủ nợ này đều đợc quyền nộp đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tại điều 7 luật phá sản quy định. "Sau
khi hạn 30 ngày kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không đợc doanh
nghiệp thanh toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một
phần có quyền nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu
cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp".
Ngoài các chủ nợ ra thì: Đại diện công đoàn hoặc đại diện ngời lao
động (nơi cha có tổ chức công đoàn) cũng có quyền đa đơn yêu cầu giải
quyết việt tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo tinh thần Điều 8 luật phá sản doanh nghiệp thì: trong trờng hợp
doanh nghiệp không trả đợc lơng ngời lao động trong 3 tháng liên tiếp thì
đại diện công đoàn hoặc đại diện ngời lao động (nơi cha có tổ chức công
đoàn) có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp dến Toà án
nh các chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần. Sau khi
nộp đơn đại diện công đoàn doanh nghiệp hay đai diện ngời lao động đợc coi
10
là chủ nợ lơng. Cũng tại Điều 8 Nghị định 189/ CP ngày 23 - 12 - 1994 của
Chính phủ quy định: "Đại diện công đoàn doanh tham gia quá trình giải
quyết phá sản doanh nghiệp là Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn hoặc đợc
chủ tịch Ban chấp hành công đoàn uỷ quyền bằng văn bản.
Đối tợng có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
chính là doanh nghiệp mắc nợ (trờng hợp này đợc coi là phá sản tự nguyện).
Cụ thể là: trong trờng hợp đã thực hiện các biện pháp khó về tài chính để
thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp vẫn không
thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp cuả doanh nghiệp phải nộp đơn đến toà án nơi
đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản
của doanh nghiệp (Điều 9 luật phá sản doanh nghiệp).
Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp có thể đại diện theo pháp luật hoặc
đại diện theo sự ủy quyền. Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp là ngời đợc
bầu hay bổ nhiệm vào chức vụ đứng đầu của doanh nghiệp hay chủ sở hữu
của doanh nghiệp. Ví dụ nh giám đốc doanh nghiệp nhà nớc, chủ tịch Hội
đồng quản trị của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, chủ doanh
nghiệp t nhân, chủ nhiệm hợp tác xã Đại diện theo sự uỷ quyền là ngời đợc
đại diện theo pháp luật giao cho trách nhiệm làm thay họ công việc mà họ có
quyền làm hoặc phải làm. Sự ủy quyền phải làm thành văn bản, cần lu ý rằng:
Trong khi giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp nếu phát hiện
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì toà án thông báo cho các chủ nợ
doanh nghiệp biết để nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (Điều 10). Điều này
cũng có nghĩa toà án không phải là đối tợng có quyền nộp đơn khởi kiện vụ
việc phá sản. Điều đó cũng có nghĩa tơng tự nh đối với các cơ quan thanh tra,
tài chính, ngân hàng khi thực hiện chức năng của mình.
3. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
11
Theo thông lệ chung, cơ quan có thẩm quyền thụ lý hồ sơ và tuyên bố
phá sản doanh nghiệp là toà án. Tuy nhiên có sự khác biệt trong tổ chức hệ
thống toà án và các cơ quan tài phán nên sự phân công có khác nhau. Chẳng
hạn ở hầu hết các nớc châu âu lục địa, thẩm quyền này đợc giao cho toà án
thơng mại, trong khi đó có một số nớc nh Mỹ, Nam T, Thụy Điển lại thành
lập toà án riêng để giải quyết phá sản.
ở Cộng hoà liên bang Nga thẩm quyền tuyên bố phá sản doanh nghiệp
thuộc về toà án trọng tài, ở Trung Quốc do tính chất vụ kiện phá sản đợc xác
định thuộc phạm vi vụ kiện dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của toà
án thờng (toà án dân sự).
ở nớc ta theo quy định tại Điều 4 luật phá sản doanh nghiệp về khoản 3
Điều 30 luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân thì
toà án kinh tế thuộc toà án nhân dân thì toà án kinh tế thuộc toà án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tùy từng tính chất của vụ việc cụ thể toà
án kinh tế toà án nhân dân tỉnh chỉ định một hoặc một tập thể gồm 3 thẩm
phán để giải quyết.
Quy chế làm việc của tập thể thẩm phán do chánh án toà án nhân dân
tối cao quy định (Điều 15 luật phá sản doanh nghiệp).
Ngoài toà kinh tế tòa án nhân dân cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì toà phúc thẩm toà án
nhân dân tối cao cũng có thẩm quyền giải quyết liên quan đến quyết định
tuyên bố phá sản doanh nghiệp).
Nh vậy theo quy định của luật phá sản doanh nghiệp của ta thì giải
quyết vụ việc phá sản chỉ đợc tiến hành qua hai cấp xét xử bởi vì quyết định
giải quyết khiếu nại, kháng nghị về quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp của toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng (có
hiệu lực thi hành). ở một số nớc cho phép giải quyết vụ việc phá sản trên đợc
12
tiến hành qua 3 cấp xét xử để giải quyết đảm bảo tốt quyền lợi cho đơng sự
khi có yêu cầu.
4. Thủ tục thụ lý đơn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp.
Khi thụ lý đơn, toà án phải vào sổ và cấp cho ngời nộp đơn giấy báo
nhận và trong vòng7 ngày phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp
mắc nợ biết (kèm theo bản sao đơn và tài liệu liên quan Điều 12
(1)
). Đồng
thời ngời nộp đơn phải nộp tiền tạm ứng lệ phí trừ trờng hợp ngời nộp đơn là
đại diện của công đoàn hay ngời lao động. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày
nhận đợc thông báo của toà án doanh nghiệp mắc nợ phải gửi cho toà án bản
báo cáo về khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp; Trờng hợp mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn thì doanh nghiệp phải gửi đến toà án các giấy tờ
sau đây:
- Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp đã thực hiện nhng vẫn
không khắc phục đợc tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
- Danh sách chủ nợ và số nợ phải trả cho mỗi chủ nợ, địa chủ của chủ
nợ.
- Bản tờng trình về trách nhiệm của giám đốc và của Hội đồng quản trị.
- Báo cáo tình hình kinh doanh sáu tháng trớc khi không trả đợc nợ đến
hạn.
- Báo cáo tổng kết tài chính của hai năm cuối cùng.
- Hồ sơ kế toán liên quan.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn chánh toà kinh tế toà án
nhân dân tỉnh phải xem xét và ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá
sản.
Quyết định thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doạnh nghiệp do chánh
toà kinh tế ra trên cơ sở có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trong quyết định này nêu rõ:
+ Lý do mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
13
+ ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp.
+ Thẩm phán thừa hành nhiệm vụ tuyên bố phá sản. Trong trờng hợp có
3 thẩm phán thì phải chỉ định 1 thẩm phán làm chủ trì.
+ Các nhân viên của tổ quản lý tài sản.
Quyết định này phải đợc đăng báo công khai trên báo hàng ngày của
trung ơng và của địa phơng trong 3 số liên tiếp.
Quyết định không mở thủ tục phá sản doanh nghiệp phải nêu rõ lý do,
đồng thời phải gửi cho ngời nộp đơn và doanh nghiệp mắc nợ mỗi bên một
bản của quyết định này.
Các bên có quyền khiếu nại quyết định này lên chánh án toà án nhân
dân tỉnh. Thời hạn khiếu nại là 15 ngày kể từ ngày nhận đợc quyết định của
toà án. Trong thời hạn 7ngày kể từ khi có khiếu nại, chánh án toà án nhân
dân tỉnh phải ra một trong các quyết định sau:
+ Giữ nguyên quyết định của chánh toà kinh tế cấp tỉnh
+ Hủy quyết định của chánh toà kinh tế cấp tỉnh và yêu cầu xem xét lại
ra quyết định mới. Trờng hợp này tránh toà kinh tế phải xem xét và ra quyết
định trong thời hạn là 7 ngày. Nếu các bên vẫn còn khiếu nại thì chánh toà án
nhân dân tỉnh giải quyết và ra quyết định. Quyết định của chánh án toà án
nhân dân tỉnh là quyết định cuối cùng.
Đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch
vụ công cộng quan trọng toà án chỉ thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản sau
khi đã nhận đợc văn bản của Thủ tớng chính phủ hoặc của Thủ trởng cơ quan
nhà nớc đã quyết định thành lập doanh nghiệp về việc không áp dụng biện
pháp cần thiết phục hồi khả năng thanh toán nợ cuả doanh nghiệp đó.
5. Mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 15 luật phá sản doanh nghiệp thì:"Trong thời
hạn 30 ngày (kể từ ngày thụ lý đơn) hoặc sau 7 ngày kể từ ngày chánh án toà
án nhân dân tỉnh ra theo khoản 2 Điều 13 luật phá sản nếu xét thấy đủ căn cứ
chánh án toà án kinh tế cấp tỉnh ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét