Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Tài liệu Tự học Microsft Asp Net doc

Bài 01
Làm Quen với ASP.NET
Hãy ngồi xuống đây, hãy ngồi xuống đây, xa cơn buồn phiền.
Dẫu biết chia phôi, nhưng trong cuộc đời, vẫn có đôi ta.
Hãy ngồi xuống đây - Lê Uyên Phương

Trong trang này, ta sẽ tham khảo một số vấn đề như sau:
• ASP.NET là gì?
• Phương pháp làm việc trong mạng
• Sơ lược về .NET Framework
• Bố trí và cài đặt ASP.NET
• Tạo trang ASP.NET đầu tiên
Chắc hẳn ta có dịp được nghe Nguyễn Ngọc Ngạn kể với Kỳ Duyên rằng ông đã bỏ công gần 2, 3 năm trời đằng đẳng để
nghiên cứu rất là cực khổ mới khám phá ra một chân lý như sau: 'Thà là lấy vợ vừa trẻ vừa đẹp còn hơn là lấy vợ vừa già
vừa xấu'. Ta thì không cần phải tốn nhiều năm tháng đến thế để biết được ASP.NET vừa tr
ẻ vừa đẹp hơn là ASP hoặc những
phương pháp phát triển mạng cổ điển khác nhưng dù có biết rõ ASP.NET vừa trẻ vừa đẹp (Microsoft chính thức khai trương
sản phẩm .NET Framework và MS Visual studio.NET vào ngày 13 tháng Hai năm 2002, tuy nhiên rất nhiều phiên bản Beta2
đã được phổ biến khắp thế giới giữa năm 2001) nhưng mấy ai biết được ASP.NET là gì và dung nhan mùa hạ ra làm sao?
Vậy ta 'hãy ngồi xuống đây' để bắt đầu làm quen với ASP.NET.


ASP.NET - EM LÀ AI?
Trước hết, họ tên của ASP.NET là Active Server Pages .NET (.NET ở đây là .NET framework). Nói đơn giản, ngắn và gọn thì
ASP.NET là một công nghệ có tính cách mạng dùng để phát triển các ứng dụng về mạng hiện nay cũng như trong tương lai
(ASP.NET is a revolutionary technology for developing web applications). Bạn lưu ý ở chổ ASP.NET là một phương pháp tổ
chức hay khung tổ chức (framework) để thiết lập các ứng dụng hết sức hùng mạnh cho mạng dựa trên CLR (Common
Language Runtime) chứ không phải là một ngôn ngữ lập trình. Ngôn ng
ữ lập trình được dùng để diển đạt ASP.NET trong
khóa này là VB.NET (Visual Basic .NET) và VB.NET chỉ là một trong 25 ngôn ngữ .NET hiện nay được dùng để phát triển
các trang ASP.NET mà thôi.

Tuy mang họ tên gần giống như ASP cổ điển nhưng ASP.NET không phải là ASP. Ta sơ lược ở đây vài khác biệt giữa
ASP.NET và ASP để bạn có khái niệm tổng quát và sẽ trình bày thêm chi tiết khi đào sâu vào từng điểm đặc trưng (features)
của ASP.NET ở từng bài học một.

KHÁC BIỆT GIỮA ASP.NET VÀ ASP
ASP.NET được phác thảo (re-design) lại từ số không, nó được thay đổi tận gốc rễ và phát triển (develop) phù hợp với yêu cầu
hiện nay cũng như vạch một hướng đi vững chắc cho tương lai Tin Học. Lý do chính là Microsoft đã quá chán nãn trong việc
thêm thắt và kết hợp các công dụng mới vào các kiểu mẫu lập trình hay thiết kế mạng theo kiểu cổ điển nên Microsoft nghĩ
rằng tốt nhất là làm lại một kiể
u mẫu hoàn toàn mới thay vì vá víu chổ này chổ nọ vào ASP. Ðó là chưa kể đến nhiều phát
minh mới ra đời sau này dựa trên các khái niệm mới mẽ theo xu hướng phát triển hiện nay của công nghệ Tin Học
(Information Technology) cần được đưa vào kiểu mẫu phát triển mới đó. Nhờ vậy, ta mới có thể nói khơi khơi ASP.NET
không phải là ASP. Thật vậy , ASP.NET cung cấp một phương pháp hoàn toàn khác biệt với phương pháp của ASP.

Lưu ý, mặc dù ASP.NET và ASP khác biệt nhau nhưng chúng có thể hoạt động vui vẽ hài hoà với nhau trong Web Server của
bạn (operate side-by-side). Do đó, khi bạn cài ASP.NET engine, bạn không cần lập trình lại các ứng dụng hiện có dưới dạng
ASP của bạn tuy rằng, nếu muốn, bạn có thể làm điều đó rất dễ dàng.

SỰ THAY ÐỔI CƠ BẢN
ASP đã và đang thi hành sứ mạng được giao cho nó để phát triển mạng một cách tốt đẹp như vậy thì tại sao ta cần phải đổi mới hoàn
toàn? Lý do đơn giản là ASP không còn đáp ứng đủ nhu cầu hiện nay trong lãnh vực phát triển mạng của công nghệ Tin Học.
ASP
được thiết kế riêng biệt và nằm ở tầng phiá trên hệ điều hành Windows và Internet Information Server, do đó các công dụng
của nó hết sức rời rạt và giới hạn.
Trong khi đó, ASP.NET là một cơ cấu trong các cơ cấu của hệ điều hành Windows dưới dạng nền hay khung .NET (.NET
framework), như vậy ASP.NET không những có thể dùng các object của các ứng dụng cũ mà còn có thể xử dụng tất cả mọi
tài nguyên mà Windows có, dễ dàng như ăn cơm tấm bì sườn chả vậy.

Ta có thể tóm tắc đại khái sự thay đổi như sau:
• Tập tin của ASP.NET (ASP.NET file) có extension là .ASPX, còn tập tin của ASP là .ASP.
• Tập tin của ASP.NET (ASP.NET file) được phân tích ngữ pháp (parsed) bởi XSPISAPI.DLL, còn tập tin của ASP
được phân tích bởi ASP.DLL.

• ASP.NET là kiểu mẫu lập trình phát động bằng sự kiện (event driven), còn các trang ASP được thi hành theo thứ tự
tuần tự từ trên xuống dưới.

• ASP.NET xử dụng trình biên dịch (compiled code) nên rất nhanh, còn ASP dùng trình thông dịch (interpreted code)
do đó hiệu suất và tốc độ phát triển cũng thua sút hẳn.
• ASP.NET yểm trợ gần 25 ngôn ngữ lập trình mới với .NET và chạy trong môi trường biên dịch (compiled
environment), còn ASP chỉ chấp nhận VBScript và JavaScript nên ASP chỉ là một scripted language trong môi
trường thông dịch(in the interpreter environment). Không những vậy, ASP.NET còn kết hợp nhuần nhuyễn với XML
(Extensible Markup Language) để chuyển vận các thông tin (information) qua mạng.

• ASP.NET yểm trợ tất cả các browser và quan trọng hơn nữa là yểm trợ các thiết bị lưu động (mobile devices). Chính
các thiết bị lưu động, mà mỗi ngày càng phổ biến, đã khiến việc dùng ASP trong việc phát triển mạng nhằm vươn tới
thị trường mới đó trở nên vô cùng khó khăn.


PHƯƠNG PHÁP LÀM VIỆC TRONG MẠNG
Internet đã và đang đem lại nhiều điều kỳ diệu cho đời sống của ta. Thật vậy, nó có khả năng 'nối vòng tay lớn' mọi người trên
thế giới tưởng chừng như cách biệt xa xôi ngàn dặm bổng dưng lại gần trong gang tất, kỹ thuật này đã mang lại biết bao nhiêu
điều mới mẻ đến cho ta tỷ như e-mail, instant messaging hay World Wide Web (hay gọi tắc là WWW hay Web hay mạng)
làm việc thông tin liên lạc tr
ở nên dễ dàng, do đó con người cùng đời sống cũng thay đổi nhanh chóng như 'cuốn theo chiều
gió'.
Từ khởi đầu, việc phát triển 1 mạng hết sức là đơn giản, chỉ cần một hay vài trang trong đó ta muốn chia sẽ bất cứ thông tin gì
ta thích là chắc chắn cũng có người ghé qua thăm viếng. Tuy vậy, các trang trong thời kỳ khởi nguyên của mạng rất thụ động,
nó không cho phép khách vãng lai trao đổi thông tin một cách hổ tương (interact) với ta, nghĩa là thăm thì có thăm nhưng
không hỏi hay chia sẽ được gì với nhau.

Dần dà, mạng phát triển thêm nhiều công dụng khác nhau gắn thêm vào nào là hình ảnh, nào là tables, forms và cuối cùng có
thể trao đổi thông tin hay tâm tình với khách vãng lai qua các ứng dụng như guestbook, thăm dò ý kiến (user, customer hoặc
là client poll) hay các diễn đàn với mọi tiết mục trên trời dưới đất. Sau đó, các chuyên gia phát triển mạng lại thêm thắt và
trang điểm cho mạng của mình càng lúc càng đặc sắc hơn, cùng muôn mầu muôn vẽ.

Tất cả những cố gắng đó đã đem tác động hổ tương đến giữa Web Master (hay nhóm quản lý mạng) và khách vãng lai như ta
được chứng kiến hiện nay, tuy vậy vẫn còn thiếu hẳn 1 phần quan trọng nhất là phần nội dung cơ động tuỳ biến (dynamic
content). Do đó vai trò của phương pháp dịch vụ (server processing) được phát triển để có thể trình bày nội dung được lưu trữ
trong các cơ sở dữ li
ệu (database) tuỳ theo yêu cầu riêng biệt cho từng cá nhân.
KIỂU MẪU RESQUEST/RESPONSE
Kiểu mẫu này chính là toàn bộ phương pháp làm việc theo kiểu Client /Server hiện dùng với ASP.
Client/Server - Một trường hợp đơn giản nhất là sự trao đổi thông tin giữa 2 máy vi tính để hoàn thành 1 công việc được định
trước, trong đó máy Server cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của 1 máy khách hành (Client PC).

Thường thường, Server là máy vi tính lưu trữ thông tin về mạng trong đó có hình ảnh, video, những trang HTML hay ASP. Client là
máy vi tính được dùng để lướt mạng. Một cách tổng quát phương pháp này gồm có 4 bước cơ bản sau:
1. Client (thông qua Internet Browser) xác định vị trí của Web Server qua 1 nối URL (Universal Resource Locator) tỷ như
www.vovisoft.com

2. Client sẽ yêu cầu được tham khảo 1 trang trong mạng đó và thường là trang chủ (home page) tỷ như index.htm hay
default.htm
3. Server đáp ứng bằng cách hoàn trả hồ sơ mà Client đã yêu cầu.
4. Client nhận được hồ sơ gởi về và hiển thị (display) trong browser của mình.
Lưu ý, một khi Client đã nhận được hồ sơ rồi, quá trình trao đổi qua lại đó kết thúc ngay tức khắc. Sau đó, Server và Client trở thành
'ngưòi xa lạ', coi như là chưa từng bao giờ gặp nhau (stateless model), ta gọi là kiểu 'làm ngơ'.
KIỂU MẪU EVENT-DRIVEN
Kiểu mẫu event-driven này dùng với ASP.NET cũng tương tợ như là kiểu mẫu event-driven mà ta vẫn thường dùng trong khi
lập trình các ứng dụng với Visual Basic 6.
Trong kiểu mẫu này, Server sẽ không 'ngồi chơi xơi nước' chờ Client yêu cầu tham khảo 1 trang nào đó trong mạng mà
Server đã bố trí và kế hoạch sẵn trước tất cả mọi tình huống để có thể hành động kịp thời mỗi khi Client quyết định làm 1 điều
gì đó. Ta gọi đó là 'response to your action', còn trong kiểu mẫu trước là 'response to your request', như vậy ASP.NET có thể
phát hiện ra các hành động của Client để phản ứng cho thích hợp.

Ðọc tới đây chắc bạn sẽ hỏi lại ngay rằng: 'Ủa, nhưng mà làm sao một Server nào đó, có thể ở tận đâu đâu bên kia địa cầu, lại
biết được là ta đang gõ vài mẫu tự trong một hộp chữ hay là đang nhấp mũi chuột (click) vào button trong phần Guestbook
hay Forum của Vovisoft để gởi đi một thông điệp làm quen với Vovisoft?'.

À, sỡ dỉ Server có thể làm được 'chuyện khó tin nhưng có thiệt đó' là dựa vào tiến trình xử lý linh động ở Client (gọi là
clever client-side processing) để thực hiện kiểu mẫu event-driven này của mình. Tiến trình xử lý ở Client xãy ra khi ta bố trí
nguồn mã thích hợp mà Client có thể hiểu được trong các trang ta gởi về cho Client. Lưu ý là mặc dù các trang mạng (web
page) ta đều chứa ở Server nhưng nguồn mã lại có thể được thực hiện và xử lý, hoặc ở Server hoặc ở
Client (Server-Side
processing và Client-Side processing) tuỳ theo cách ta bố trí. Thật vậy, ASP.NET không thể nào biết được chuyện gì sẽ xãy ra
ở máy vi tính của bạn (Client PC) nhưng nhờ vào tiến trình xử lý linh động ở Client mà Server có thể tiến hành kiểu mẫu phát
triển mạng mới theo phương pháp event-driven.

Nhớ là ta có thể chạy nguồn mã ở 2 chỗ khác nhau: hoặc là chạy ở Server (gọi là Server-side) hoặc là chạy ở Client (Client-
side) và các nguồn mã ở 2 chỗ này hoàn toàn khác biệt, không có tác động hổ tương với nhau (no interact with each other).
Ðiều đó có nghĩa là máy Client sẽ chịu trách nhiệm thi hành các nguồn mã được lập trình dành cho mình cũng như máy
Server chỉ chạy các nguồn mã dành cho Server. Thông tin hay nội dung cần thiết ở Server sẽ được chuyển sang dạng HTML
đơn giản (plain HTML) trước khi gởi đến cho Client, thườ
ng thì nguồn mã dành cho Client cũng được chuyển đi dưới dạng
'plain text command' để thực hiện các hiệu ứng năng động (dynamic effect) ở máy Client, tỷ như thay đổi hình ảnh (image
rollover) hay hiển thị một thông điệp (message box).

ASP.NET sẽ dùng các ngôn ngữ mới có trình biên dịch (compiled languages) như C# hay VB.NET để soạn các nguồn mã
trong các trang Web ở Server.


SƠ LƯỢC VỀ .NET FRAMEWORK
Mọi chức năng ASP.NET có được hoàn toàn dựa vào .NET framework, do đó có chữ .NET trong ASP.NET. Ta cần phải hiểu
thấu đáo kiến trúc hạ tầng của .NET framework để dùng ASP.NET một cách hiệu quả, trong đó quan trọng nhất là CLR và
.NET Framework Class.

CLR (COMMON LANGUAGE RUNTIME)
CLR là môi trường được dùng để quản lý sự thi hành các nguồn mã (manage the execution of code) mà ta đã soạn ra và biên
dịch (write and compile code) trong các ứng dụng. Tuy nhiên khi biên dịch nguồn mã, ta lại biên dịch chúng ra thành một
ngôn ngữ trung gian gọi là Microsoft Intermediate Language (MSIL). Chính MSIL trung gian này là ngôn ngữ chung cho
tất cả các ngôn ngữ .NET hiện có, do đó chắc bạn cũng đoán ra là ASP.NET cũng được biên dịch (compile) ra MSIL như mọi
ai khác. Trong khi biên dịch như vậy, các ứng dụng cũng sản xuất ra những thông tin cần thiết để tự quảng cáo chính mình,
ta gọi những thông tin này là metadata. Ðến khi ta chạy một ứng dụng, CLR sẽ tiếp quản (take-over) và lại biên dịch
(compile) nguồn mã một lần nữa ra thành ngôn ngữ gốc (native language) của máy vi tính trước khi thi hành những công tác
đã được bố trí trong nguồn mã đó. Ta có thể cảm thấy những việc bận rộn sau hậu trường đó khi phải chờ đợi 1 khoãng thời
gian cần thiết để CLR chấm dứt nhiệm vụ của nó khi l
ần đầu phải biên dịch (compile) và hiển thị 1 trang Web, nhưng rồi mọi
chuyện sẽ xuôi chèo mát mái, cuối cùng là ta có một trình biên dịch (compiled code) để xử dụng rất hiệu quả.

.NET FRAMEWORK CLASSES
Ðiều quan trọng nhất mà ta cần phải nhớ là mọi thứ trong .NET đều là object, tỷ như các trang ASP.NET, các hộp thông điệp
(message box) hay là nút bấm (button), tất cả đều là object cả. Các object đó được tổ chức lại thành từng nhóm riêng biệt như
trong một thư viện để ta dễ dàng xữ dụng. Ta gọi các nhóm như vậy là namespaces, và ta sẽ dùng những namespace này để
gọi hay nhập (import) các class cần thiết cho ứng dụng củ
a mình.
Ở đây, ta chỉ sơ lược một chút về .NET framework mà thôi, bạn có thể tham khảo đầy đủ chi tiết về .NET framework ở các
bài viết của thầy Lê Ðức Hồng trong khóa Học .NET Framework và VB.NET


CÀI ÐẶT ASP.NET
Ðể chạy trang ASP.NET, trước hết ta cần phải cài đặt thành công:
• Internet Information Server (IIS) và bố trí Virtual Directory dùng trong khóa Tự Học ASP.NET của Vovisoft.
• MS Visual Studio.NET - trong trường hợp này thì MS Visual Studio.NET đã cài sẵn .NET Framework SDK cho ta dùng
với ASP.NET hoặc là Microsoft ASP.NET Web Matrix (chi tiết được trình bày ở bài Giới Thiệu Về Web Matrix).
• .NET Framework Software Development Kit (SDK) - nếu ta không có MS Visual Studio.NET, ta có thể tải .NET
Framework Software Development Kit (SDK) xuống tự do từ mạng www.microsoft.com/NET
, với SDK, ta chỉ có thể
dùng Notepad hoặc một Text Editor nào ta thích để phát triển trang ASP.NET mà thôi.
Nhớ là ASP.NET là kỹ thuật phát triển mạng ở phiá Server, do đó ta phải cần có Internet Information Server (hay thường được gọi
đơn giản hơn là Web Server) để soạn (phát triển hay lập trình) các trang về mạng cho khách vãng lai ghé thăm cũng như tham khảo
các thông tin liên hệ. Nhưng khác với các trang ASP cổ điển, Web Server sẽ không hiểu các trang ASP.NET nếu như ta quên hay bỏ
sót không cài .NET Framework SDK hoặc không cài MS Visual Studio.NET, chính nhờ ở .NET Framework SDK mà ta có đầy đủ
các công dụng và các object hay classes cần thiết cho các trang ASP.NET của ta.
CÀI INTERNET INFORMATION SERVER (IIS)
Internet Information Server (IIS) Version 5.0 là một sản phẩm 'cho không biếu không' của Microsoft khi ta mua MS Windows
2000 Professional hay MS Windows XP Professional. IIS chuyên trị về Web Server, qua đó ta có thể cung cấp các dịch vụ nói chung
về mạng cho khách vãng lai, mà dịch vụ về mạng thì thiên hình vạn trạng, nhỏ xíu như từ cây kim sợi chỉ cho đến vĩ đại như phi
thuyền, giải Ngân Hà hay vũ trụ, đều có thể được bố trí đầy đủ thông tin hay các ứng dụng liên hệ cần thiết để đáp ứng nhu cầu củ
a
khách vãng lai.
1. Ðể cài IIS Version 5.0 trong MS Windows XP Professional, ta bắt đầu chọn:
• Start, Settings, Control Panel, Add/Remove Programs và nhấp đơn (click) Add/Remove Windows Components, xong chọn
Internet Information Server như sau:

2. Nếu ta nhấp đơn nút <Details>, ta có thể tự do lựa chọn thêm hay bớt các thành phần trong IIS, tỷ như ta có thể bố trí thêm File
Transfer Protocol Service (FTP Server) để quản lý một cách hiệu quả hơn việc tải lên (upload) hay tải xuống (download) các hồ sơ
(documents) hay tập tin (files).
3. Nhấp nút <Next>, Windows XP Professional sẽ thu thập các thông tin liên hệ và bắt đầu tiến trình cài đặt IIS. Chỉ trong vòng vài
phút là ta đã có một Web Server ngon lành trong máy vi tính. Giờ đây, bạn đã trở thành một Web Master 'bất đắc dĩ'. Xin chúc
mừng tân Web Master, ít ra ta cũng trở thành Web Master chính máy vi tính của ta (Web Master của local host).
4. Ðể xác định việc cài thành công Web Server, ta có thể thử như sau:
• Mở Browser của bạn, tỷ như Microsoft Internet Explorer và gõ hàng chữ như sau vào hộp địa chỉ (Uniform Resource
Locator) http://localhost hay http://cantho
cantho (Cần Thơ) trong trường hợp này chính là tên máy vi tính của tôi đó (Computer Name). Ta có thể gọi
localhost hay cantho tuỳ ý.
• Sau khi ta nhấp nút <Enter>, trang mặc định (default page) của IIS sẽ hiển thị như sau:


BỐ TRÍ VIRTUAL DIRECTORY DÙNG TRONG KHÓA TỰ HỌC ASP.NET CỦA
VOVISOFT
Trước khi ta có thể tạo ra và bố trí một virtual directory tên là VovisoftASPNET (hoặc bất cứ tên nào bạn thích) dùng trong khóa
Tự Học ASP.NET này, ta phải làm một số việc như sau:
• Tạo ra 1 sub folder Vovisoft ASPNET cho các bài tập (Exercises).
• Vào (access) bên trong Web Server để kiểm tra hay quản lý các tài nguyên trong mạng.
• Bố trí virtual directory VovisoftASPNET.
Chi tiết các bước theo thứ tự như sau:
1. Tạo ra một sub directory có tên là Vovisoft ASPNET cấu trúc ở drive D như sau: D:\Net\Vovisoft ASPNET, để ý là có một chỗ
trống giữa 2 chữ Vovisoft và ASPNET. Tuy vậy, nếu bạn nhuyễn về IIS, bạn có thể đặt tên tùy thích và không nhất thiết phải theo y
chang kiểu mẫu này, nhưng bạn phải hiểu việc bạn làm để bố trí một virtual directory thích hợp dùng thực hành các bài tập trong
khóa sao cho thành công.

2. Có nhiều phương pháp vào (access) bên trong Web Server trước khi bố trí virtual directory, ta có thể dùng MMC (Microsoft
Management Console) để cộng thêm IIS snap-in vào console hoặc ta có thể chạy IIS bằng cách chọn: Start, Programs,
Administartive Tools, Internet Information Service.
Phương pháp dùng MMC là phương pháp được các MCP (Microsoft Certified Professional) hay MCSE (Microsoft Certified
System Engineer) ưa thích hơn vì tính cách linh động mềm dẽo thích hợp cho việc quản lý các nguồn tài nguyên khác nhau trong
mạng.
Dưới đây là hình đặc trưng cho việc dùng MMC:

Tuy nhiên, ta sẽ không đào sâu vào chi tiết việc xử dụng MMC để bố trí virtual directory cho khóa học ở đây mà ta sẽ dùng kiểu vào
IIS trực tiếp qua việc chọn: Start, Programs, Administrative Tools, Internet Information Service như đã trình bày ở trên. IIS sẽ
hiển thị như sau:

3. Bố trí một virtual directory VovisoftASPNET:
• Nhấp phải (right click) vào Default Web Site, chọn New, Virtual Directory:

• Virtual Directory Creation Wizard sẽ bắt đầu tiến trình bố trí:

• Nhấp vào nút <Next> và gõ VovisoftASPNET ở hộp Alias:

• Nhấp vào nút <Next> và dùng <Browse > để chọn sub folder 'D:\Net\Vovisoft ASPNET' mà ta đã chuẩn bị trước đây cho
các bài tập của khóa.

• Chấp nhận các bố trí mặc định (default settings) cho virtual directory VovisoftASPNET. Nếu thích, ta có thể thêm vào đó
quyền Browse (mục đích là sau này ta dể truy cập và chạy các trang ASP.NET phát triển cho ứng dụng của mình).
• Nhấp <Next> và sau đó <Finish> để kết thúc tiến trình bố trí.


Thế là ta đã có một virtual directory để chạy các trang ASP.NET sau này.
Bạn thấy đó! Việc tạo ra 1 virtual direcotry còn dễ dàng hơn là ăn 'tô tái nạm'.
CÀI MS VISUAL STUDIO.NET
Xin tham khảo bài học số 1 của thầy Lê Ðức Hồng ở khóa Học Microsoft .NET Framework về việc làm sao để cài đặt MS Visual
Studio.NET thành công.
Lưu ý: Khi cài MS Visual Studio.NET là ta cũng đã cài .NET Framework SDK, do đó ta không cần phải theo những chỉ dẩn về việc
cài đặt .NET Framework SDK như trình bày ở bước kế tiếp.
CÀI .NET FRAMEWORK SOFTWARE DEVELOPMENT KIT (SDK)
Tuy ta có thể tải xuống miễn phí .NET Framework SDK ở mạng www.microsoft.com/NET nhưng lưu ý là SDK này gồm tổng cộng
gần hơn 130 MBytes nên ta sẽ mất rất nhiều thời gian (khoãng 6, 7 giờ) để tải thành công trong trường hợp dùng 56 Kbps modem.
Ngoài ra, thay vì tải qua mạng, ta cũng có thể đặt mua SDK chứa trong CD-ROM hay truy cập SDK trong các CD-ROM biếu kèm
với các tạp chí Tin Học.
Một khi đã có .NET Framework SDK rồi, ta chỉ cần chạy chương trình setup là xong. Tiến trình này cũng sẽ rất lâu vì Windows sẽ
khai mở từng tập tin một cũng như thu thậ
p các thông tin cần thiết cho việc bố trí .NET Framework ở máy của ta, do đó tốt hơn hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét