con người, tương tác lẫn nhau, và cùng tác động đến sự hình thành,
sinh tồn và phát triển của con người cùng các hoạt động xã hội của
họ. Bản thân các hoạt động sinh tồn của con người cũng đang ngày
càng làm biến đổi mạnh mẽ môi trường. Vời nghĩa đó, về bản chất,
môi trường là hệ thống với nhiều phân hệ từ vi mô đến vĩ mô, có cấu
trúc phức hợp từ nhiều thành tố có bản chất khác nhau, có tính động,
tính mở và khả năng tự tổ chức, tự điều chỉnh, đồng thời giữa chúng
thường xuyên tác động qua lại, quy định và phụ thuộc lẫn nhau thông
qua dòng trao đổi vật chất và năng lượng và thông tin liên tục
- Kinh tế môi trường là một ngành khoa học đa ngành và mới mẻ, lấy
các vấn đề môi trường làm đối tượng nghiên cứu chính của mình và
tiếp cận chủ yếu chúng dưới góc độ kinh tế. So với các khoa học
chuyên ngành kinh tế và các bộ môn khoa học khác, kinh tế môi
trường có xu hướng thiên về nghiên cứu mối quan hệ biện chứng,
nhiều chiều giữa môi trường với tư cách là hệ thống chỉnh thể với
các hoạt động kinh tế - xã hội, nhằm ngăn chặn và giảm thiểu những
sai lầm của thị trường, hoặc những mặt trái trong những quyết định
và cơ chế khai thác, phân phối và tiêu dùng tài nguyên cho các hoạt
động kinh tế - xã hội, nghiên cứu, xây dựng các cơ chế khuyến khích
và các hình thức chi phí một cách hiệu quả và công bằng nhất trong
quá trình khai thác, bảo vệ và cải thiện môi trường trên cả cấp độ
quốc gia lẫn quốc tế.
• Phát triển bền vững :
- Nguồn gốc chủ yếu của mọi biến đổi về môi trường sống của nhân
loại đang xảy ra hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta là các
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của con người. Các hoạt động
này một mặt cải thiện chất lượng môi trường sống của con người,
hơn nữa con người hiện đại có cuộc sống đầy đủ về vật chất, an
toàn về sinh mệnh, phong phú về văn hóa và các chuẩn mực khác.
Mặt khác các hoạt động này lại tạo ra hàng loạt các vấn đề khác như
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm, suy thoái chất lượng môi
trường khắp mọi nơi trên toàn thế giới.
- Phát triển là áp lực của cuộc sống, là quy luật tất yếu của tiến hóa đã
và đang diễn ra trên hành tinh của chúng ta từ khi nó được hình
thành. Vấn đề đang được tìm tòi là phát triển như thế nào để con
người của các thế hệ hiện nay cũng như trong tương lai có được
cuộc sống hạnh phúc về vật chất cũng như tinh thần. Từ đó đã ra đời
khái niệm “phát triển bền vững” .Theo Hội đồng Thế giới về môi
trường và phát triển WCED thì “Phát triển bền vững là sự phát triển
đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của
các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”.
1.2 Sự đối lập và thống nhất giữa phát triển kinh tế và môi
trường sinh thái.
1.2.1.Sự đối lập.
Trong cuộc sống ngày nay, do nhu cầu về điều kiện sống của con
người ngày càng cao nên tất yếu sẽ thúc đẩy chúng ta phải phát triển
kinh tế để thỏa mãn những nhu cầu đó. Tuy nhiên việc phát triển kinh
tế đòi hỏi phải có nguồn cung cấp nhiều hơn về nguyên vật liệu để
5
đảm bảo quá trình mở rộng sản xuất, mà nguồn cung cấp đó lại được
lấy từ tự nhiên và điều này tất yếu sẽ dẫn đến việc ảnh hưởng tới môi
trường sinh thái: khai thác quá mức, tàn phá tài nguyên trên phạm vi
rộng lớn không những làm suy thoái tài nguyên mà còn làm giảm chất
lượng của môi trường sinh thái. Đây chính là mâu thuẫn: kinh tế càng
phát triển thì lại ngày càng làm cho môi trường xấu đi.
Hiện tại, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng
như của các ngành, các địa phương ở Việt Nam cho đến nay vẫn còn
chưa tính đến một cách đầy đủ yêu cầu bảo vệ môi trường, coi bảo vệ
môi trường không chỉ như một yêu cầu tất yếu, cần thiết mà còn phải
là một mục tiêu hướng tới. Lẽ đương nhiên, không phải bất cứ sự tăng
trưởng kinh tế nào cũng kéo theo sự suy giảm về môi trường. Sự suy
giảm này chỉ xảy ra một khi năng lực tải của môi trường bị sự tăng
trưởng kinh tế vi phạm. Dưới đây là một số khía cạnh mâu thuẫn trong
chiến lược phát triển của các ngành kinh tế trong mối quan hệ với môi
trường sinh thái ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới:
1.2.1.1. Chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước cũng
như của các ngành, các địa phương đều nhắm vào mục tiêu duy trì
tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.
Mục tiêu chiến lược mà các ngành, các địa phương đều định
hướng vào tăng gấp đôi và hơn nữa GDP trong mỗi thập kỉ phát triển.
Điều đó có nghĩa là phải duy trì tốc độ tăng trưởng trong một thời gian
dài hàng năm của GDP ở mức độ cao khoảng 8 – 10 % /năm. Nếu
như trình độ công nghệ của sản xuất và cơ cấu sản xuất của nền kinh
tế không được cải thiện nhiều thì sự tăng trưởng GDP của đất nước
cũng có nghĩa là tăng khối lượng tài nguyên khai thác cho sản xuất và
tăng lượng chất thải vào môi trường. Kết quả là ô nhiễm môi trường
chắc chắn sẽ tăng lên, nhất là khi tốc độ tăng trưởng của sản xuất
công nghiệp cao vẫn sẽ là chủ lực và duy trì ở mức độ cao (12 -15
% /năm). Hiện tại tốc độ đổi mới công nghệ trong nền kinh tế quốc dân
mới vào khoảng 7 – 10 % /năm. Định hướng chiến lược phát triển
khoa học – công nghệ của Việt Nam xác định tốc độ đổi mới công
nghệ hàng năm khoảng 10 – 15 % /năm. Điều đó có nghĩa là phải sau
7 – 10 năm nền kinh tế mới đổi mới được công nghệ của mình. Trong
khoảng thời gian đó thì môi trường đã phải chịu những tác động hết
sức nặng nề.
1.2.1.2. Cơ cấu các ngành sản xuất sẽ chuyển dịch theo hướng tăng
nhanh tỉ lệ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Các phương án phát triển được đề xuất ở tầm vĩ mô (cả nước),
tầm trung mô (ngành, địa phương) và vi mô (công ty, doanh nghiệp)
đều có nét chung nổi bật là tốc độ tăng trưởng cao của sản xuất công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ thường được xác định khoảng 12 – 15
% /năm so với sản xuất nông nghiệp (thường được xác định khoảng 4
– 6 % /năm). Kết quả là tỉ trọng của sản xuất công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ trong GDP có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Sự tăng trưởng
cao của các ngành công nghiệp, xây dựng nhất định sẽ dẫn đến các
vấn đề môi trường cần quan tâm đặc biệt, bởi lẽ đằng sau mức tăng
6
trưởng của sản xuất công nghiệp tàng ẩn những nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường. Kinh nghiệm quốc tế đã khái quát mối quan hệ giữa tăng
trưởng công nghiệp, đô thị hóa và chất lượng môi trường ở các nước
đang phát triển như sau:
Chúng ta có thể thấy rằng, nếu như không có các chính sách,
chiến lược phù hợp thì khi định hướng phát triển công nghiệp của Việt
Nam nhằm vào các ngành mà đất nước hiện đang có lợi thế so sánh
như: công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí, điện năng,
chế biến nông, lâm, hải, sản, dệt may, thì sẽ càng thấy rõ những nguy
cơ tiềm ẩn lớn dần về ô nhiễm môi trường. Bởi lẽ các ngành công
nghiệp nói trên đều thuộc loại danh mục các nguồn lớn nhất gây ô
nhiễm môi trường.
Nếu đi sâu vào cơ cấu sản xuất công nghiệp thì có thể dự báo
sự tăng nhanh hơn cả về nguồn gây ô nhiễm môi trường ở tốc độ khai
thác tài nguyên (than, dầu mỏ…) cao. Chiến lược phát triển dầu khí
xác định khai thác giai đoạn 2005 – 2010 đạt sản lượng gấp đôi sản
lượng năm 2000, lên tới 25 – 30 triệu tấn /năm. Các chỉ tiêu khai thác
than đến năm 2010 được Bộ công nghiệp soạn thảo cũng cho thấy
một kế hoạch duy trì tốc độ tăng đáng kể của ngành này.
Bảng dự báo sản xuất than 1996 – 2010 (1000 tấn)
Tăng trưởng công nghiệp
Tăng công ăn việc làm
Tăng số dân di cư vào thành thị
Tăng sự hòa trộn công nghiệp –
đô thị
7
Tăng khối lượng chất thải và các
chất gây ô nhiễm môi trường
Một khía cạnh khác cũng cần phải tính đến trong hoạch định
chính sách bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế là cùng với
nhịp độ tăng của các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
tiêu dùng chất đốt cho năng lượng sẽ tăng lên đáng kể. Sự tăng lên về
tiêu dùng năng lượng than, điện…chắc chắn sẽ thải các chất thải ngày
một nhiều hơn và ảnh hưởng tới chất lượng môi trường. Dự báo về
nhu cầu than tới năm 2010 của Bộ công nghiệp cho thấy nhu cầu tiêu
dùng than mà nên kinh tế năm 2010 cần sẽ tăng gấp đôi so với nhu
cầu tiêu dùng của năm 1995, cụ thể là từ 6,89 triệu tấn (1995) lên 12,8
triệu tấn (2010).
Dựa trên cơ sở nhu cầu tiêu dùng nhiên liệu hóa thạch (than,
dầu) của các năm, có thể dự báo các dạng khí độc (CO
2
, SO
2
…) ảnh
hưởng tới chất lượng không khí. Tài liệu dự báo của bộ công nghiệp
cho thấy tổng lượng phát thải khí CO
2
vào năm 2010 từ sự tiêu dùng
năng lượng sẽ tăng gấp 3 lần năm 1999.
Vì vậy, ta có thể thấy từ thực tế Việt Nam những năm qua,
chúng ta càng tập trung vào các ngành công nghiệp, xây dựng, nền
kinh tế tăng trưởng càng cao thì môi trường sinh thái ngày càng bị ảnh
hưởng một cách nghiêm trọng. Đây chính là một trong những khía
cạnh chính của sự đối lập giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái.
1.2.1.3. Không chỉ trong công nghiệp và xây dựng, việc phát triển
nông nghiệp ở nhiều nước trên thế giới nói chung và ở ngay Việt
Nam nói riêng cũng đã và đang gây ảnh hưởng xấu tới môi trường
sinh thái.
Thâm canh trong sản xuất nông nghiệp ngày càng sâu rộng sẽ
tiếp tục sử dụng ngày càng nhiều chất hóa học vô cơ độc hại và khó
phân giải.
Trong cơ cấu GDP của nước ta, giá trị của nông, lâm ngư
nghiệp vẫn còn chiếm giữ một tỉ trọng tương đối lớn (khoảng gần ¼).
Ở phần lớn các tỉnh và địa phương, tỉ lệ này còn có nơi chiếm tới 50 –
60 %. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỉ trọng của
sản xuất nông nghiệp sẽ gắn liền với việc thâm canh ngày càng tăng
trong sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi. Quá trình
thâm canh hóa sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục gắn
liền với việc tăng cường sử dụng các loại phân vô cơ, thuốc trừ sâu,
diệt cỏ. Vào năm 1996, mức sử dụng phân bón hóa học cho một hécta
sản xuất nông nghiệp ở nước ta trung bình vào khoảng 120 -150 kg.
1996 – 2000 2001 - 2005 2006 - 2010
Than nguyên khối 55.879 72.977 78.271
Than hầm lò 17.816 29.929 34.894
Than lộ thiên 38.063 43.049 43.377
8
Đến năm 2000, để đạt sản lượng 30 triệu tấn thóc thì phải tăng mức
phân bón hóa học nói trên 3 lần, tức là vào khoảng 200 – 450 kg cho
một hécta.
Rõ ràng là nếu không có những chính sách và biện pháp bảo vệ
thích hợp và lâu dài thì với sự tăng cường sử dụng các loại phân bón
hóa học, các chất vô cơ lâu phân hủy và độc hại thì nguy cơ ô nhiễm
môi trường ở tất cả các thành phần môi trường (đất, nước, không khí,
đa dạng sinh học…) sẽ ngày càng tăng lên, đe dọa chính sự phát triển
bền vững của sản xuất nông nghiệp và sức khỏe con người. Đây chính
là một khía cạnh đối lập rất rõ ràng trong mối quan hệ mâu thuẫn biện
chứng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở nhiều
nước trên thế giới và ngay ở Việt Nam.
1.2.1.4. Một số nền kinh tế ở trình độ thấp lại chủ trương tăng
trưởng quá nóng, thường thiếu các điều kiện vật chất, tài chính và
dễ bỏ qua các nguyên tắc, yêu cầu bảo vệ môi trường. Thậm chí có
nước đã chủ trương “hy sinh” môi trường dể đạt được sự tăng
trưởng nhanh chóng nhờ tiết kiệm các khoản chi phí ngân sách cho
bảo vệ môi trường.
Ta có thể thấy, lợi ích về kinh tế đã mâu thuẫn với yêu cầu bảo
vệ môi trường. Có thể trước mắt, việc cắt giảm ngân sách dành cho
bảo vệ môi trường sẽ đem lại những lợi ích kinh tế nhất định, song về
lâu dài chính sự suy thoái của môi trường lại là nguyên nhân quan
trọng làm giảm tính hấp dẫn của thị trường nước đó và thúc đẩy sự ra
đi của các nhà đầu tư nước ngoài, thiệt hại lúc này sẽ vô cùng lớn và
trầm trọng đối với nền kinh tế.
1.2.1.5. Phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế là một yêu cầu tất
yếu của cuộc sống con người, thế nhưng dù ở trình độ nào thì sự
phát triển của con người dù ít hay nhiều đều ảnh hưởng tới môi
trường sinh thái thông qua việc khai thác tự nhiên.
Các cộng đồng người có thu nhập thấp do không đủ vốn liếng,
thiếu phương tiện, thiết bị phải tự kiếm sống bằng sự khai thác không
hợp lí, bóc lột cùng kiệt các tài nguyên thiên nhiên, khai thác bằng các
phương pháp thủ công, hiệu quả khai thác thấp là suy thoái môi
trường do nghèo nàn và lạc hậu. Việt Nam và nhiều nước đang phát
triển và kém phát triển đang phải đối mặt với vấn đề này.
Trái lại, những cộng đồng có kinh tế phát triển, với tư bản lớn,
khoa học và công nghệ cao, phá hoại môi trường bằng nền sản xuất
lớn, theo chiều sâu, tiêu dùng lãng phí. Đó là nguyên nhân gây suy
thoái môi trường do thừa thãi phát triển quá mức cần thiết.
1.2.2. Sự thống nhất.
Phát triển kinh tế và vảo vệ môi trường sinh thái là hai mặt đối
lập trong mâu thuẫn biện chứng giữa chúng. Trong mối quan hệ này
sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại
không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, là sự tác động ngang nhau
9
của chúng. Sự phát triển, cụ thể là sự phát triển kinh tế của con người
đã gây ra nhiều tác động đối với môi trường sinh thái.Tuy nhiên, trong
mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng với phát triển kinh tế, đến lượt
mình, môi trường lại tác động trở lại nền kinh tế của con người theo
hai hướng trái ngược nhau.
1.2.2.1. Chiều tiêu cực:
Môi trường là xuất phát điểm quan trọng cho việc hình thành
các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, cũng như cho việc triển
khai các hoạt động kinh tế trên thực tế, đồng thời bất cứ nền kinh tế
nào vận hành trên các nguyên tắc và thể chế không được thiết kế
nhằm khuyến khích và định hướng hành vi, thái độ ứng xử của cá
nhân và tập thể người sản xuất cũng như người tiêu dùng, ở cả cấp vĩ
mô và vi mô, cũng gây tác động xấu đến môi trường. Hơn nữa, khi đó
những lợi ích kinh tế ban đầu thu được từ việc khai thác và sử dụng
bừa bãi thiên nhiên sẽ không bù lại được những chi phí đắt đỏ và tổn
thất to lớn mà mà con người phải hứng chịu về sau trong quá trình
khôi phục môi trường, hay để thích hợp hơn trong một môi trường mới
đã bị biến dạng, bị xuống cấp bởi chính bàn tay con người.
Với những hoạt động mang tính tiêu cực, gây ảnh hưởng xấu,
nghiêm trọng tới môi trường sinh thái, con người hay chính sự phát
triển bền vững của nền kinh tế của con người đang bị môi trường tác
động trở lại ngày càng rõ rệt hơn. Bảng thống kê dưới đây cho thấy
một số ví dụ về về sự thiệt hại kinh tế do hủy hoại môi trường tại một
số nước đang phát triển. Qua đó có thể thấy rằng vấn đề môi trường ở
các nước đang phát triển là nghiêm trọng. Những con số đưa ra ở đây
là không đầy đủ, bởi nó không đưa ra những con số tương tự ở các
nước công nghiệp phát triển để có thể so sánh được, nhưng cũng có
thể thấy rằng các nước đang phát triển chắc chắn bị thiệt hại lớn về
kinh tế do suy giảm môi trường.
Phí tổn kinh tế do suy giảm môi trường ở một số nước đang
phát triển
10
Trên quy mô toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng thì con
người và sự phát triển bền vững của con người đang bị đe dọa bởi
những tác động trở lại của môi trường như sau :
- Suy giảm về trữ lượng và chất lượng của tài nguyên thiên nhiên có
nghĩa cơ bản đối với cuộc sống của con người như: đất, nước, rừng,
thủy sản, khoáng sản và các dạng tài nguyên năng lượng. Sự suy thoái
này có trong các thập kỉ đầu của thế kỉ XXI có khả năng dẫn tới tình
trạng thiếu thốn nghiêm trọng về lương thực cho nhân loại. Đặc biệt
trong khi chủ trương của đa số các nước hiện nay, trong đó có Việt Nam
là thay đổi cơ cấu của nền kinh tế theo xu hướng tăng tỉ trọng của công
nghiệp và dịch vụ, giảm thiểu tỉ trọng của nông nghiệp thì nguy cơ trên
càng rõ ràng hơn. Dân số thế giới đang tiếp tục tăng lên với tốc độ
khoảng 1,7 % /năm, trong khi đó tốc độ tăng trưởng của lương thực chỉ
khoảng 1% /năm.
- Ô nhiễm môi trường sống của con người với tốc độ nhanh và phạm vi
lớn hơn trước. Không khí, nước, đất tại các đô thị, khu công nghiệp, khu
chế xuất và ngay cả ở vùng nông thôn, vùng sản xuất nông nghiệp, vùng
ven biển, đại dương ngày càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe đời sống của con người cũng như sự sinh tồn và phát triển của các
sinh vật khác trên trái đất.
- Hiện tượng khí hậu nóng lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính làm băng
tan và mực nước biển sẽ dâng lên, khí CFC đang làm thủng tầng ozone
bảo vệ con người khỏi tác động nguy hiểm của bức xạ vũ trụ. Hậu quả là
hiện nay tỉ lệ người bị các bệnh ung thư đang tăng lên thấy rõ ở nhiều
nước.
- Các vấn đề xã hội cấp bách là nạn nghèo đói đang lan tràn tại các
nước chậm phát triển, nạn thất nghiệp đang đe dọa nhiều nước trên thế
giới kể cả những nước phát triển nhất, sự cách biệt về thu nhập và mức
Quốc gia Sự thiệt hại môi trường Năm %GNP
Burkina
Faso
Thất thu trong chăn nuôi, trồng trọt sản
xuất nhiên liệu (củi) do bị giảm diện tích
đất trồng.
1988 8,8
Costa Rica Hủy diệt nguồn cá ven biển, nạn phá
rừng và xói mòn đất.
1989 7,7
Etiopia Tác động của nạn phá rừng lên việc cung
cấp củi và sản lượng mùa màng.
1983 6-9
Indonesia Xói mòn đất và nạn phá rừng. 1984 4,0
Madagascar Cháy rừng và xói mòn đất. 1988 5 -15
Malavi Phá rừng và xói mòn đất. 1988 2,8-
15,2
Mali Tác động của xói mòn đất lên sản lượng
mùa màng.
1988 0,9
-12,5
Nigeria Suy giảm chất lượng đất, phá rừng ô
nhiễm nguồn nước và những xói mòn
khác.
1989 17,4
Philippines Hủy diệt nguồn cá ven biển, phá rừng, xói
mòn đất.
1989 4,0
11
sống giữa các quốc gia, cũng như giữa các nhóm người khác nhau
trong cùng một nước.
1.2.2.2. Chiều tích cực:
Nguy cơ hủy hoại môi trường và sự tác động tiêu cực trở lại của
môi trường là một khía cạnh đặc biệt quan trọng trong chính sách phát
triển bền vững. Nhưng tác động và ảnh hưởng của môi trường trở lai
phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở đó. Còn có một mặt khác của
vấn đề mà hiện nay ít được đề cập. Sự quan tâm về môi trường và
nhận thức bảo vệ môi trường đã tạo ra khả năng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và tạo thêm nhiêu công ăn việc làm thông qua quá trình chuyển
đổi cơ cấu công nghệ và kĩ thuật có xem xét dưới góc độ môi trường,
thông qua hình các ngành công nghiệp mới – công nghiệp bảo vệ môi
trường cũng như ngành dịch vụ môi trường.
2. Thực trạng phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở
Việt Nam trong thời gian qua.
Theo dự báo của Ngân hàng thế giới thì chỉ với mức tăng GDP
của nền kinh tế Việt Nam như những năm qua (khoảng 8% /năm ) thì
mức độ ô nhiễm môi trường vào năm 2020 có thể gấp 4 – 5 lần mức ô
nhiễm năm 2000. Các chuyên gia của Ngân hàng thế giới cũng ước
đoán rằng nếu không có những biện pháp ngăn ngừa bảo vệ thích hợp
thì ô nhiễm công nghiệp ở Việt Nam trong thời kì 2000 – 2010 sẽ tăng
với chỉ số 3,8, tương đương 14% tăng trưởng kinh tế. Tổn thất kinh tế
do ô nhiễm công nghiệp tác động tới sức khỏe của con người ước tính
khoảng 0,3 % GDP của đất nước vào năm 2000 và tới năm 2010 sẽ
tăng lên tới 12%. Nếu tính gộp cả các giá trị hưởng thụ bị mất đi, sự
mất mát đa dạng sinh học… thì tỉ lệ này còn lớn hơn gấp bội. Kinh
nghiệm phát triển kinh tế của thế giới cho thấy rằng: tính trung bình
trong 10 năm, nếu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các nước châu
Á tăng lên 2 lần thì mức độ ô nhiễm tăng lên 5 lần, tỉ lệ này ở Việt Nam
ước tính cũng tương tự. Việc bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay
chưa đáp ứng nhu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới. Nhìn chung môi trường ở nước ta vẫn tiếp tục bị ô
nhiễm và suy thoái, có nơi nghiêm trọng. Việc thi hành pháp luật bảo
vệ môi trường chưa nghiêm minh: nhận thức tự giác bảo vệ và giữ gìn
môi trường công cộng chưa trở thanh thói quen trong cách sống của
đại bộ phận dân cư.
2.1. Có thể tóm tắt các hoạt động kinh tế đã và đang gây suy thoái
tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường ở Việt Nam gồm:
2.1.1. Khai thác tài nguyên thiên nhiên không hợp lí.
- Khai thác lâm nghiệp không hợp lí: gỗ, săn bắn, sản phẩm rừng…
- Mở rộng diện tích đất nông nghiệp vào hệ sinh thái rừng, đất ngập
nước…
- Tiếp tục du canh du cư và canh tác nương rẫy.
- Phát triển cây công nghiệp (cà phê, cao su, bông, chè…) vào đất
rừng.
- Tiếp tục dể hoang đất trống, đồi núi trọc.
12
- Khai thác bừa bãi động vật hoang dã, tiếp tục buôn bán các loài thú
quí hiếm.
- Sử dụng chất nổ, chất độc, điện để đánh bắt thủy sản.
- Khai thác nước ngầm không đúng kĩ thuật.
2.1.2. Sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội không bền vững.
- Xây dựng các đập nước không đánh giá tác động của môi trường.
- Quy hoạch dân số và kế hoạch hóa gia đình chưa đạt yêu cầu cân
bằng, ổn định.
- Tiếp tục khai thác gỗ củi ở rừng tự nhiên để đun nấu.
- Khai hoang vòa đất ngập nước, rừng ngập mặn để nuôi tôm, nuôi cá.
- Khai thác quá mức tài nguyên thủy sản trong các khu vực nước ngọt
và ven biển.
- Khai thác bừa bãi các rạn san hô làm vôi, bán làm kỉ niệm.
- Thâm canh nông nghiệp theo hướng tăng thuốc trừ sâu, phân hóa
học.
- Nhập các giống cây trồng, vật nuôi mới từ nước ngoài, bỏ qua ưu thế
của cây trồng, vật nuôi truyền thống của địa phương.
- Chưa thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động môi trường của
các hoạt động tưới tiêu thủy lợi.
- Còn bỏ sót đánh giá tác động môi trường cho các dự án phát triển
kinh tế - xã hội.
- Chưa kiểm soát được di dân tự do.
- Thực hiện chưa đầy đủ các công ước về bảo vệ môi trường đã kí.
- Chưa kiểm soát chặt chẽ các hoạt động xuất nhập khẩu liên quan
đến bảo vệ môi trường.
2.1.3. Ô nhiễm môi trường đang gia tăng bởi:
- Các nhà máy thiếu bộ phận xử lí chất thải (nước, khí, rác…), chưa có
công nghệ tái sử dụng chất thải.
- Không tiết kiệm khi khai thác quặng không quy hoach bãi thải.
- Các chất thải từ các đô thị và khu công nghiệp, đặc biệt là các chất
thải độc hại, không được quản lí chặt chẽ.
- Chưa kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn của các phương tiện giao
thông, sân bay, cầu cảng…
- Không quản lí tốt môi trường khu du lịch, thể thao, nghỉ ngơi, giải trí.
- Tiếp tục dùng than kém chất lượng để đun nấu.
- Quy hoạch địa điểm và mặt bằng nhiều khu công nghiệp (cũ và mới)
chưa hợp lí.
2.1.4. Các rủi ro và thảm họa môi trường xảy ra ngày một nhiều
bởi:
- Khai thác và vận chuyển dầu chưa an toàn.
- Chưa kiểm soát tốt các lưu vực.
- Sử dụng thiếu an toàn thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh gia súc và
phân hóa học.
- Các chất độc hại không có quy chế quản lí.
- Chưa có kế hoạch tốt đề phòng các rủi ro và thảm họa môi trường.
- Cung cấp nước sạch cho nhân dân chưa đảm bảo nhu cầu tối thiểu-
- Không xử lí phân bắc ở nông thôn, đặc biệt là ở đồng bằng Nam bộ,
kể cả phân gia súc.
13
- Rừng tiếp tục bị phá là nguyên nhân lớn dẫn đến lũ quét và ngập lụt
lớn.
2.2. Các số liệu thống kê và thực trạng về một số khía cạnh nổi
cộm của tình trạng môi trường sinh thái của Việt Nam trong thời
gian gần đây.
Trong những năm gần đây, do việc phát triển kinh tế đã kéo
theo quá trình đô thị hóa ngày càng nhanh. Nhiều nhà máy trước đây
nằm ở ngoại thành giờ đây đã nằm lọt trong các đô thị với lượng dân
cư đông đúc, đang gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường xung
quanh. Đặc biệt là tình trạng ô nhiễm nguồn nước sạch do rất nhiều
nhà máy, công xưởng xả nước thải chưa hề được xử lí hoặc đã được
xử lí nhưng chưa đạt yêu cầu ra sông ngòi, kênh rạch… “Riêng Thành
phố Hồ Chí Minh mỗi ngày có 450000 kg BOD bị thải ra sông rạch,
trong đó nước thải công nghiệp chiếm 250000 kg/ngày. Các nhà máy
dệt, nhuộm gây ô nhiễm nặng nề nhất, từ 20000 – 250000 mg/l COD”.
Theo số liệu thống kê tại Hà Nội, tổng lượng nước thải từ 300 – 400
ngàn m3/ngày, trong đó lượng nước thải từ sản xuất công nghiệp là 85
– 90 ngàn m3/ngày, tổng khối lượng rác thải sinh hoạt là 1800 – 2000
m3/ngày, trong đó khối lượng thu gom được chỉ đạt 850 m3/ngày,
phần còn lại chủ yếu được đổ vào các khu vực ven sông hồ, kênh
mương nội thành. Bên cạnh đó, đặc biệt là các chất thải từ bênh viện
không được xử lí, các phòng thí nghiệm, các khu chăn nuôi. Theo điều
tra của các cơ quan chức năng, các nhà máy của các khu công nghiệp
Việt Trì, Biên Hòa, Thái Nguyên đã gây ô nhiễm nặng cho nước ở các
sông Hồng, sông Đồng Nai, sông Cầu…
Không chỉ có công nghiệp mới gây ô nhiễm môi trường mà ngay
cả ngành công nghiệp cũng gây ra điều này do sự thiếu hiểu biết, nhận
thức kém của người nông dân còn hạn chế, lại bị tác động bởi nền
kinh tế thị trường, nên họ đã tìm mọi cách để khai thác tiềm năng của
cây trồng qua việc tăng cường sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ
sâu, thuốc kích thích… để tạo ra những sản phẩm với năng suất cao
và có vỏ ngoài đẹp mắt. Tuy nhiên, chính việc làm của họ đã dẫn đến
việc chất lượng nước bị suy thoái, thậm chí có nơi không thể sử dụng
được như một số các công trình khai thác nước ở Vinh, Hải Phòng,
Quảng Ninh.
Việc khai thác quá mức nước dưới đất cũng gây ra ảnh hưởng
tới việc cung cấp nước, làm hạ mực nước ở một số cụm công trình
khai thác, làm giảm lưu lượng nước và gây ra tình trạng lún đất ở một
số nơi của Hà Nội. Tình hình này cũng tương tự tại một số tỉnh khác.
Mặc dù kinh tế nước ta đang đạt mức tăng trưởng khá cao,
nhưng hệ thống thoát nước tại các đô thị hiện nay đều là hệ thống
chung cho cả thoát nước mưa, nước thải công nghiệp, đã tồn tại từ rất
lâu đời và chưa được quy hoạch một cách cụ thể. Hệ thống thoất nước
này có nhược điểm là chưa có trạm xử lí nước thải tập trung tiết diện
các đường cống nhỏ và bị bùn cạn lắng đọng làm khả năng thoát nước
kém, hệ thống cống rãnh thưa, nhiều đường phố không có cống thoát
nước. Hệ thống cống rãnh thoát nước yếu kém cùng với hồ ao bị san
lấp đã gây ra tình trạng úng ngập trầm trọng vào mùa mưa ở nhiều
nơi, đặc biệt là các thành phố lớn, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét