Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

243579

http://www.ebook.edu.vn
5
- Tìm hiểu về vai trò, hiệu quả thực hiện, phạm vi áp dụng việc nâng cao ý thức
cộng đồng trên thế giới và trong nước.
- Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thị xã Gò Công, tỉnh Tiền
Giang.
- Xác định hiện trạng môi trường của khu vực.
- Xác định vấn đề môi trường đáng quan tâm của khu vực.
- Tìm hiểu ý thức của người dân trong vùng về bảo v
ệ môi trường.
- Xây dựng các chương trình nâng cao ý thức cộng đồng phục vụ cho quản lý
môi trường.



























http://www.ebook.edu.vn
6

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO Ý
THỨC CỘNG ĐỒNG
I. ĐỊNH NGHĨA
I.1

Cộng đồng
Cộng đồng ở đây được hiểu là một tập hợp công dân cư trú trong một khu vực
địa lý, hợp tác với nhau về những lợi ích chung và chia sẻ những giá trị văn hóa chung.
Theo định nghĩa trên cộng đồng có những cái chung: địa lý, văn hóa và lợi ích.
Xác định đúng đắn một cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh của sự tham gia, tính đồng nhất
và khả năng duy trì lâu dài c
ủa một hoạt động phong trào
Đồng nhất về địa lý: yêu cầu cộng đồng phải cùng chung sống trong một vùng
địa lý sinh thái, cùng một đơn vị hành chính. Ví dụ cùng một làng, xã, cùng sống ở một
vùng cửa sông, ở ven biển, ven sông hay trên núi…
Đồng nhất về lợi ích: trong trường hợp bảo về môi trường thì lợi ích về môi
trường cần xác định rõ. Ví dụ cộng đồng cùng chịu thiên tai (lũ, lụt, trượt lở đấ
t), cùng
chia sẻ nguồn nước và chịu ảnh hưởng ô nhiễm của nguồn nước đó, cùng khai thác
nguồn lợi của một thủy vực như đầm, phá, vịnh, cửa sông…
Đồng nhất về văn hóa: tùy trường hợp mà tìm kiếm những giá trị văn hóa chung
để tổ chức sự tham gia. Ví dụ cộng đồng được xác định theo dân tộc, theo nghề nghiệp
(cộng đồng nông nghiệp, ngư nghiệp, ch
ăn thả gia súc, làng nghề thủ công, các doanh
nghiệp…)
I.2 Đặc điểm của cộng đồng ở Việt Nam
Có thể nêu một số đặc điểm của cộng đồng người Việt Nam như sau:
- Chưa phát triển nếp sống theo pháp luật, còn nhiều tục lệ ngoài luật.
- Văn hóa nông nghiệp, nông thôn còn sâu đậm; thiếu hoặc chưa hoàn hảo văn hóa
đô thị, văn hóa khoa họ
c – công nghệ, văn hóa môi trường; hay dễ dãi, tùy tiện.
- Ứng xử tình trước, lý sau, duy tình hơn duy lý.
- Tín ngưỡng có ảnh ưởng mạnh mẽ trong đức tin, lối sống hàng ngày.
- Tiếng phổ thông (tiếng Việt) có nhiều phương ngữ khác nhau, dễ gây hiểu lầm;
còn nhiều bà con dân tộc ít người chưa thạo tiếng phổ thông; không ít người dù được
học hành chu đáo nhưng nói và viết tiếng phổ thông vẫn chưa chuẩn. m
ột phần vì tiếng
Việt vẫn chưa được chuẩn hóa, phần khác vì ngữ pháp tiếng Việt quá phức tạp.
Với một số đặc điểm như đã nêu trên của cộng đồng đòi hỏi nhà quản lý khi tổ
chức các hoạt động thu hút sự tham gia của người dân vào bảo vệ môi trường phải biết
rõ về cộng đồng: Họ là ai? Họ có những thói quen, tập quán, phong tục, tín ngưỡ
ng thế
http://www.ebook.edu.vn
7
nào? Tức là phải hiểu rõ đặc trưng văn hóa cộng đồng, nhất là tập quán sản xuất và lịch
thời vụ của họ.
I.3

Sự tham gia của cộng đồng vào quản lý môi trường
:
I.3.1 Vì sao cần có sự tham gia của cộng đồng?
“Mỗi người đều có quyền sống trong một môi trương lành mạnh và có nghĩa vụ
bảo vệ môi trường. Để khẳng định quyền hạn này và đáp ứng nghĩa vụ này, các công
dân phải được tiếp cận với thông tin, được quyền tham dự trong quá trình ra quyết định
và có sự công bằng trong các vấn đề môi trường. Thông tin đảm bảo rằng cộng đồng có
thể tham gia trong một tình huống có thể thông báo và tiếp cận với sự công bằng để đảm
bảo rằng sự tham gia diễn ra trên thực tế và không chỉ trên giấy tờ.” (UN/ECE 2000:4:6)
I.3.2 Tham gia của cộng đồng là gì?
Là cách thức làm việc với cộng đồng mà các quyết định sẽ chỉ thực hiện khi nó
đem đến một môi trường trong lành và đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng địa phương
cho một cu
ộc sống tốt đẹp hơn (UN/ECE 2000). Sự tham gia của cộng đồng tạo cho họ
có cơ hội hình thành một quan điểm về một kế hoạch và giúp chính quyền biết được
quan điểm này trước khi ra quyết định, nghĩa là một sự thông tin 2 chiều thực sự.
Sự tham gia của cộng đồng là một đòi hỏi khắc khe:
- Dễ dàng tiếp cận được đến thông tin là mộ
t điều kiện cần thiết;
- Sự tham gia của cộng đồng thiết lập trên cơ sở niềm tin không thể nhận được qua
một đêm (nghĩa là không thể một sớm một chiều có được sự tham gia của cộng đồng,
mà cần có thời gian); luật lệ cung cấp nền tảng cho sự tham gia này;
- Quan trọng là phải lắng nghe, cái gì nói chưa chắc là cái sẽ làm!
- “Tôn trọ
ng luật chơi”. Nếu không có sự rõ ràng và công bằng, sự thất vọng sẽ
nảy sinh và sẽ dẫn đến những thái độ tiêu cực hoặc bạo lực.
Sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động quản lý môi trường có vai trò rất quan
trọng. Một trong những hoạt động quan trọng nhất của quản lý môi trường là quản lý
hành vi của con người với môi trường. chỉ cần mỗi người thiếu ý th
ức bảo vệ môi
trường một chút là hoạt động quản lý môi trường sẽ bất lực. Vì thế, sẽ là một thuận lợi
nếu chúng ta tìm ra một cách thức thích hợp giúp tăng cường sự tham gia của cộng đồng
trong hoạt động quản lý môi trường.
Luật Môi trường Việt Nam có nêu rõ “ Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn
dân”. Trong khi phải đương đầu với các vấn đề suy thoái môi trường gia tăng do quá
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng. Các địa phương cần phát huy tốt vai
trò của cộng đồng trong mọi hoạt động bảo vệ môi trường.
Một giải pháp hiệu quả để duy trì công tác bảo vệ môi trường, giảm ô nhiễm là
nâng cao nhận thức cộng đồng, hỗ trợ để dân chúng nhận biết và hiểu được các vấn đề
http://www.ebook.edu.vn
8
của họ, tạo điều kiện để họ tự nguyện tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường; và
kết hợp chặt chẽ biện pháp này để họ tự nguyện tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi
trường; và kết hợp chặt chẽ với các biện pháp quản lý của chính quyền các cấp.
Muốn nâng cao vai trò của tác nhân cộng đồng trong công việc quản lý môi
trường cần ph
ải tuân thủ phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Phải xã hội
hóa công tác quản lý và bảo vệ môi trường, đơn giản hóa các khái niệm môi trường để
người dân dễ hiểu, dễ thực hiện. cần xây dựng các chương trình hành động bảo vệ môi
trường có tính khả thi cao và dễ duy trì liên tục, lâu dài. Khi nào người dân thấy được
lợi ích và trách nhiệm của mình trong việc quản lý và bảo vệ môi trường thì khi đó họ
mới thực hiện các hành vi
đó.
Nhận biết, bàn, làm, kiểm tra là sang tạo của Việt Nam trong quá trình thúc đẩy sự
tiến bộ của xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Áp dụng quy trình này vào tổ
chức sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ môi trường, cần xác định nội dung và mối
tương quan của 5 bước.
Bước 1 – Nhận: Để huy động sự tham gia của cộng đồng về bảo vệ môi trường,
cần làm rõ khi tham gia, cộng
đồng nhận được những gì, họ sẽ được lợi gì. Có thể cụ thể
hóa các lợi ích như: lợi ích vật chất, ví dụ được vay vốn; lợi ích tinh thần, ví dụ danh
tiếng của làng; lợi ích về chất lượng môi trường sống, ví dụ có nước sạch, rác được
quản lý, giảm bệnh tật…
Bước 2 – Biết: Tăng cường nhận thức của cộng đồng qua các câu hỏi liên quan
đến sự tham gia của họ vào một nhiệm vụ, dự án, chương trình cụ thể. Bằng cách giải
đáp 6 câu hỏi sau: Nhiệm vụ đó là gì? Tại sao lại có nhiệm vụ đó, tại sao họ cần tham
gia? Tham gia vào nhiệm vụ đó như thế nào? Thực hiện nhiệm vụ đó ở đâu? Thực hiện
nhiệm vụ khi nào? Bao lâu? Những ai được/phải tham gia?
Bước 3 – Bàn: Tổ chức cho cộ
ng đồng bàn bạc về các giải pháp mà họ sẽ thực
hiện khi tham gia vào chương trình/dự án/nhiệm vụ; bàn bạc về những gì họ sẽ nhận
được và trách nhiệm của họ trong chương trình/dự án/nhiệm vụ.
Bước 4 – Làm: Tổ chức cho cộng đồng thực hiện các giải pháp, các nhiệm vụ.
Bước 5 – Kiểm tra: Tổ chức cho cộng đồng hoặc đại diện cộng đồng có thể
kiểm
tra tiến trình thực hiện nhiệm vụ, kết quả của dự án, quyền lợi họ được nhận. Những
hình thức như các tổ tình nguyện, tổ tự quản… có thể được thành lập.
Để giúp cho việc thực hiện quy trình 5 bước, có thể tổ chức các hình thức họp,
truyền thong, tập huấn…
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của các hoạt động nâng cao nhận thức cộng
đồng,
cần chú ý đến một số khía cạnh sau:
http://www.ebook.edu.vn
9
- Nội dung các chương trình đào tạo hoặc các hoạt động: cần gắn liền với tình
hình cụ thể của địa phương để người tham gia các chương trình đào tạo hoặc hoạt động
thấy được những lợi ích thiết thực do các hoạt động hoặc chương trình này đem lại.
- Cần quan tâm đến lối sống, phong tục tập quán đặc thù cùa địa phương.
Có n
ắm được đặc trưng của dân cư thì mới hiểu được điều cơ bản nhất trong hoạt
động của địa phương, từ đó có cơ chế quản lý, tổ chức và kiểm soát hoạt động thông
qua cơ chế tự điều chỉnh là hiệu quả nhất.
Lối sống nông thôn mang tính chất tập thể cao, trong đó mỗi thành viên lệ thuộc
chặt chẽ
vào cộng đồng. mỗi người sinh ra là đã có vị trí mặc định trong làng xóm và
phong cách sống gần như tương tự nhau. Còn lối sống đô thị có cấu trúc và tính chất
khác hẳn, nó được hình thành trên nền tảng phức hợp, đa thành phần, đa dân tộc của đô
thị trên toàn bộ cơ sở vật chất, điều kiện sống hoạt động nghề nghiệp và mối quan hệ xã
hội c
ủa tất cả các nhóm cư dân sống trên địa bàn đô thị.
Với những đặc thù về lối sống của từng địa phương, các hoạt động muốn tăng
cường dự tham gia của cộng đồng dân cư cũng cần lưu ý đến khía cạnh này trong công
tác tổ chức. ví dụ: tổ chức các khóa tập huấn, họp hành: có thể linh động tổ chức vào
những giờ thuận tiệ
n trong sinh hoạt của người dân tại địa phương; chọn phương tiện
truyền thông thích hợp; lồng ghép các chương trình vào các hoạt động văn hóa, lễ hội
của địa phương. Phối hợp và phát huy hiệu quả các phương tiệ ntruyeefn thông đại
chúng (tivi, đài phát thanh truyền hình, báo chí, tờ rơi…) trong việc kêu gọi sự tham gia
của cộng đồng.
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NÂNG CAO Ý THỨC CỘNG ĐỒNG Ở
VIỆT NAM

n ba năm trước đây, ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị 36-CT/TW "Về tăng cường công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Bản Chỉ thị đã đề ra 8
giải pháp lớn với những nội dung cơ bản, quan trọng và toàn diện. Một trong những giải
pháp được Bộ Chính trị đặt lên hàng đầu là: "Thường xuyên giáo dục, tuyên truyề
n, xây
dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường". Từ khi chỉ
thị được ban hành đã tạo ra sức mạnh tổng hợp làm chuyển biến nhận thức về môi
trường của các ngành, các cấp và toàn xã hội. Sự chuyển biến này được thể hiện trên
một số nét chính sau đây:
- Các biện pháp tuyên truyền, phổ biến kiến thức, thông tin, giáo dục về môi
trường, nhất là trên các phương tiện thông tin
đại chúng, ngày càng được tăng cường, đã
góp phần nâng cao rõ rệt nhận thức của cán bộ, Đảng viên, quần chúng nhân dân về vai
trò của công tác BVMT và những vấn đề bức xúc ở nước ta hiện nay.
http://www.ebook.edu.vn
10
- Ngay sau khi Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị được ban hành, các cấp uỷ
Đảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở đã tổ chức tuyên truyền, quán triệt, xây
dựng chương trình hành động của từng đơn vị và liên ngành để thực hiện. Bộ
KHCN&MT đã phối hợp với Ban Khoa giáo Trung ương và các cơ quan hữu quan tổ
chức thành công Hội nghị Môi trường toàn quốc năm 1998 mà một trong những nộ
i
dung quan trọng của Hội nghị này là quán triệt Chỉ thị 36-CT/TW và thông qua chương
trình hành động. Nhiều địa phương, bộ, ngành đã phổ biến, quán triệt Chỉ thị đến người
dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, với nhiều hình thức phong phú, thiết
thực, hiệu quả.
- Đề án đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ Giáo dục và
Đào tạo chủ trì, Bộ KHCN&MT là cơ quan chính phối hợp thự
c hiện và chỉ đạo đã xây
dựng đề án với những nội dung cụ thể: Xây dựng chương trình đưa giáo dục BVMT vào
các trường mầm non và sư phạm mầm non, trường tiểu học, trường trung học, trường
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, các trường sư phạm, cao đẳng sư phạm, đại học
sư phạm, các trường đại học và cao đẳng khác
- Một điều không thể
không nhắc đến là trong những năm gần đây, nhiều phong
trào quần chúng tham gia BVMT được phát động, duy trì và phát triển như: phong trào
xây dựng nếp sống ở khu dân cư; phong trào xanh, sạch, đẹp; vườn, ao, chuồng, rừng;
phong trào duy trì vệ sinh nơi công cộng; bảo đảm môi trường xanh, sạch trong các làng
nghề; tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường v.v nhiều điển hình tiên tiến về BVMT
được tuyên truyền phổ biến, nhân rộng.
- Sự nghiệ
p BVMT nước ta là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của các
cấp uỷ đảng mà nòng cốt là các đoàn thể quần chúng như Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Những thành tích trên đây trong công tác tuyên truyền, giáo dục BVMT nước ta
trong mấy năm qua là thể
hiện Chỉ thị 36-CT/TW bắt đầu đi vào cuộc sống và sự tham
gia tích cực của nhiều đoàn thể, tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tích mà công tác tuyên truyền BVMT mà chúng ta đạt
được so với hiện trạng xuống cấp của môi trường nước ta hiện nay còn chỉ như "muối
bỏ bể". Quan điểm đúng đắn trong việc giải quyết vấn đề môi trường vẫn phải kiên trì,
lâu dài, "mưa dầm th
ấm lâu" nhưng có lúc không thể thiếu sự quyết liệt, dồn dập, có
tính chất phong trào. Chúng ta dễ dàng nhận thức thống nhất với nhau rằng không phải
là sau khi Chỉ thị, Nghị quyết được ban hành là có thể giải quyết được mọi việc. Việc
quán triệt, thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị vẫn chưa tránh khỏi tình trạng
phổ biến hiện nay mà Nghị quyết Đại hộ
i IX của Đảng đã đề ra: "Việc tổ chức thực hiện
http://www.ebook.edu.vn
11
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự thống nhất và chưa được thông suốt
ở các cấp, các ngành". Điều này cũng lặp lại trong việc quán triệt, thực hiện Chỉ thị này.
Nhiều cấp ủy Đảng chưa thật sự quan tâm, quán triệt, ki
ểm tra việc thực hiện. Một số
nơi vẫn còn làm qua loa, hình thức. Tình trạng nhiều Chỉ thị, Nghị quyết không được
triển khai đến nơi đến chốn vẫn còn khá phổ biến.
- Về đại thể nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng, tính bức thiết của công tác
BVMT thì hầu như mọi người đều thống nhất. Thế nhưng khi đứng trước lợi ích kinh tế

trước mắt và lợi ích về môi trường thì không ít người "hy sinh" vấn đề môi trường để
đổi lấy lợi ích kinh tế. Khi đụng chạm đến lợi ích kinh tế cục bộ của một tập thể, cơ
quan, đơn vị, hay một gia đình thì vấn đề bảo vệ môi trường lại bị xếp ở hàng thứ yếu.
Do đó, từ nhận thức đến hành động, việc làm là cả
một khoảng cách khá xa và không
phải lúc nào người ta nói cũng đi đôi với làm.
- Một trong những vấn đề bức xúc mà giới truyền thông đại chúng khó vượt qua,
không trả lời cho bạn đọc thỏa mãn là rất nhiều hiện tượng vi phạm Luật BVMT được
báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình phát hiện đưa lên công luận, nhưng việc xử lý,
làm rõ đúng sai, quy trách nhiệm thường rất khó khăn, kéo dài và nhiều vụ việc rơi
vào im l
ặng. Tình trạng tuyên truyền giáo dục BVMT một đằng nhưng nhiều cơ quan,
đơn vị các doanh nghiệp làm một nẻo khiến cho phép nước mất nghiêm, làm giảm uy
tín của các cơ quan truyền thông đại chúng và làm giảm lòng tin của người dân vẫn còn
khá phổ biến.















http://www.ebook.edu.vn
12
CHƯƠNG 3: TỔNG QUAN VỀ THỊ XÃ GÒ CÔNG
TỈNH TIỀN GIANG
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN:
Thị xã Gò Công là đô thị lớn thứ hai sau thành phố Mỹ Tho nằm về phía đông
của tỉnh Tiền Giang cách trung tâm tỉnh lỵ khoảng 35 km, là cửa ngỏ nối liền thành phố
Mỹ Tho và thành phố Hồ Chí Minh qua phà Mỹ Lợi bởi tuyến giao thông quan trọng
Quốc lộ 50, đồng thời hướng ra biển Đông theo hai ngã Tân Thành và Vàm Láng cho
nên thị xã Gò Công sớm trở thành một trung tâm thương mại – vă
n hóa và được xem
như “ bản lề chiến lược” của trục động lực phát triển khu vực phía đông của tỉnh, không
chỉ có vai trò chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế mà còn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng về kinh tế và kết hợp quốc phòng an ninh.
• Tọa độ địa lý:
- Từ 10
0
19

53” đến 10
0
23’31” vĩ độ Bắc.
- Từ 106
0
38’23” đến 106
0
43’09” kinh độ Đông.
Về ranh giới hành chính:
- Phía Bắc giáp xã Thành Công (huyện Gò Công Tây) và Tân Trung (huyện Gò
Công Đông).
- Phía Nam giáp xã Bình Tân (huyện Gò Công Đông).
- Phía Đông giáp xã Tân Đông và Bình Nghị (huyện Gò Công Đông).
- Phía Tây giáp xã Yên Luông (huyện Gò Công Tây)
II. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG:
Nằm ở phía đông tỉnh Tiền Giang, thị xã Gò Công được xem là trung tâm giao
lưu văn hóa, kinh tế, xã hội của khu vực. Nhờ có tiềm năng phát triển về các họat động
thương mại, dịch vụ, sản xu
ất thị xã Gò Công ngày càng phát triển.
Bên cạnh đó, tình hình phát triển kinh tế-xã hội tại thị xã Gò Công vẫn còn một số
tồn tại nhất định như:
* Những hạn chế trong phát triển kinh tế
- Thiết bị công nghệ sản xuất trong ngành ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp nhìn chung còn yếu kém, lạc hậu; chưa đáp ứng yêu cầu tiến trình hội nhập nền
kinh tế khu vực, qui mô nguồn vốn và l
ực lượng lao động thấp, trình độ chuyên môn
còn thiếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh đạt thấp, sức cạnh tranh còn hạn chế.
- Công tác qui hoạch, quản lý qui hoạch và quản lý xây dựng còn nhiều hạn chế,
qui hoạch đô thị thực hiện chưa tốt, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thực hiện thiếu
đồng bộ và còn nhiều bất cập.
* Những hạn chế
trong lĩnh vực xã hội
http://www.ebook.edu.vn
13
- Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn do thu nhập thấp, nghề nghiệp
không ổn định, thiếu việc làm
- Môi trường bị ô nhiễm từ hoạt động của nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi ) và
công nghiệp (hàn, tiện ), ô nhiễm từ khu dân cư, ô nhiễm nước thải và ô nhiễm tiếng ồn
thải.
Song song với sự phát triển kinh tế thì vấn đề môi trường
ở thị xã Gò Công đang
ngày càng bị suy giảm nghiêm trọng.
II.1 Hiện trạng môi trường nước mặt
Công tác bảo vệ môi trường nước mặt bước đang từng bước đạt được kết quả cơ
bản. Từ năm 1998 thị xã đã thực hiện xóa toàn bộ cầu vệ sinh trên sông, ao; đến nay
toàn thị xã có 11.500 hộ dân sử dụng hố xí hợp vệ sinh chiếm gần 95% số hộ
dân.
Về thoát nước, các mương cống chính của thị xã đều đổ vào rạch Gò Công
nhưng thời gian đóng ngăn mặn kéo dài làm tăng lượng hữu cơ trong nước cộng với sự
gia tăng dân số và ý thức bảo vệ môi trường chưa cao nên môi trường nước bị nhiễm
bẩn đang trong tình trạng báo động.
Theo kết quả lấy mẫu nước mặt để phân tích các chỉ tiêu chất lượng môi trườ
ng
nước của Sở Tài nguyên và Môi trường cho thấy mức độ ô nhiễm của nước sông rạch
trên địa bàn thị xã Gò Công rất nặng, nhất là ô nhiễm vi khuẩn, điển hình mẫu nước lấy
ở cầu Long Chánh như sau:
- Vi khuẩn: 1.400.000 E.Coli/100 ml và 3.400.000 coliform/100 ml nước cao hơn
rất nhiều mức cho phép trong nguồn nước cấp cho sinh hoạt. (TCVN:5x10
3
MPN/100ml)
- COD: dao động 30-50 mg/l. (TCVN: <10 mg/l).
- DO: 2-7 mg/l, tùy theo mùa (TCVN: >6 mg/l).
- BOD
5
: > 11 mg/l (TCVN: < 4 mg/l).
Nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm nước mặt đồng thời chất hữu cơ và vi khuẩn
cao là do lượng nước thải sinh hoạt của con người, chất thải chăn nuôi và chất thải từ
các cơ sở sản xuất… không qua xử lý đưa thẳng vào nguồn nước quá nhiều làm khả
năng tự làm sạch của các dòng sông, nhất là những sông rạch mà dòng nước không lưu
thông được hoặc có nhưng lưu chuyể
n kém như sông Gò Công.
II.2 Hiện trạng môi trường nước ngầm:
Khu vực thị xã nằm trong vùng dự án ngọt hóa Gò Công, hàng năm vị trí này bị
nhiễm mặn 2 tháng mùa khô ( tháng 3-4) với nồng độ mặn 4
o
/
oo
. Hiện nay, mạch nước
ngầm sâu bị nhiễm mặn đáng kể không dùng cho sinh hoạt được.
Bảng: Kết quả phân tích mẫu nước ngầm:
Chỉ tiêu Thông số
http://www.ebook.edu.vn
14
Độ sâu khoan 60-70m
pH 6-7
Fe 1-12mg/l
Cl
-
1000-4000 mg/l
CaCO
3
400-1500 mg/l
Mực nước tĩnh 0,8-1,2m
( Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Gò Công)
II.3 Hiện trạng chất thải rắn:
Chất thải rắn công nghiệp - chất thải nguy hại phát sinh từ các nguồn sau:
- Các nhà máy và cơ sở sản xuất công nghiệp.
- Chất thải nguy hại phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt hằng ngày, hoạt động
thương mại, dịch vụ, ….
- Chất thải nguy hại cũng phát sinh từ lĩnh vực hoạt động nông nghiệ
p mà điển
hình là thuốc bảo vệ thực vật.
II.3.1 Khối lượng:
- Khối lượng chất thải rắn phát sinh: 20 tấn/ ngày. Trong đó:
+ Rác thải công nghiệp: 0,5 tấn/ ngày.
+ Rác thải y tế: 0,3 tấn/ ngày.
+ Rác thải sinh hoạt: 19,2 tấn/ ngày.
II.3.2 Lực lượng thu gom:
Việc thu gom, vận chuyển rác thải hiện nay trên địa bàn thị xã Gò Công được
thực hiện bởi đội ngũ thu gom của Công ty Công trình đô thị gồ
m 55 người, được phân
công như sau:
- Thu gom rác ở các hộ dân và quét rác trên các trục lộ giao thông công cộng là
40 người.
- Nạo vét hố ga, quét cát vỉa hè là 10 người.
- Lái xe và chuyển rác lên xen cơ giới: 5 người.
Ngoài đội ngũ của Công ty, hiện nay trên một số xã, phường như Phường 2,
Phường 4, Phường 5, xã Long Chánh, xã Long Thuận, xã Long Hòa đã hình thành 13 tổ
thu gom rác dân lập. Tổ thu gom rác dân lập sẽ thu gom rác ở những khu vực sâu bên
trong khu dân cư hay ở các khu vực dân cư thưa thớt.
Riêng rác thải y t
ế: do Trung Tâm Y Tế Thị Xã tổ chức lực lượng thu gom
chuyển về đốt tại lò đốt của Bệnh viện khu vực Gò công. Hiện nay, lò đốt này đã hỏng
và không còn sử dụng được nữa. Lượng rác thải bệnh viện sinh ra được châm dầu và đốt
bên ngoài, trong khuôn viên bệnh viện, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom: 53,07 % so với tổng số hộ. Trong đó:

Xem chi tiết: 243579


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét