Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014
Tình trạng viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam từ năm 1992 đến nay và một số kiến nghị
Phân loại theo nguồn cung cấp thì có: ODA song phơng: là các khoản
viện trợ trực tiếp từ nớc này đến nớc kia ( nớc phát triển viện trợ cho nớc
đang và kém phát triển) thông qua hiệp định đợc ký kết giã hai chính phủ;
ODA đa phơng: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế, hay
tổ chức khu vực hoặc của chính một nớc dành cho Chính phủ một nớc nào
đó, nhng có thể đợc thực hiện thông qua các tổ chức đa phơng nh UNDP
( Chơng trình phát triển Liên Hợp Quốc)có thể các khoản viện trợ của các
tổ chức tài chính quốc tế đợc chuyển trực tiếp cho bên nhận viện trợ.
Phân loại theo mục tiêu sử dụng có: Hỗ trợ cán cân thanh toán; tín
dụng thơng nghiệp; viện trợ chơng trình; viện trợ dự án.
Hỗ trợ cán cân thanh toán là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân
sách của Chính phủ, thờng đợc thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao
tiền tệ trực tiếp cho nớc nhận ODA và Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá);
Tín dụng thơng nghiệp: tơng tự nh viện trợ hàng hoá nhng có kèm theo
các điều kiện ràng buộc. Chẳng hạn nớc cung cấp ODA yêu cầu nớc nhận
phải dùng phần lớn hoặc hầu hết vốn viện trợ để mua hàng ở nớc cung cấp;
Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều
kiện để đợc nhận viện trợ dự án là" phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng
mục sẽ sử dụng ODA"; Viện trợ chơng trình là nớc viện trợ và nớc nhận
viện trợ ký hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định
chính xác khoản viện trợ sẽ đợc sử dụng nh thế nào.
II. Vai trò của ODA đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam.
Kể từ năm 1986 là thời điểm bắt đầu công cuộc đổi mới ở Việt Nam,
cho đến nay đất nớc đã thu đợc những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế
và ổn định xã hội. Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Để có những bớc phát triển lớn hơn thì
vốn và công nghệ là những yếu tố không thể thiếu. Mặc dù đã trải qua hơn
một thập kỷ trong sự nghiệp đổi mới nhng Việt Nam vẫn mới đợc coi bắt
đầu bớc vào giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá. Do đó thu hút và
sử dụng các nguồn vốn bên ngoài không chỉ có FDI mà cả ODA, đặc biệt là
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
ODA Nhật Bản có vai trò rất quan trọng cho việc tạo đà phát triển của nền
kinh tế nớc nhà.
ODA của Nhật Bản vẫn đợc coi là một nguồn vốn hết sức quý giá cho
tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế ở Viêt Nam. Chính sách ODA
của Nhật Bản trong khoảng một thập kỷ qua về cơ bản là đáp ứng đợc sự
mong muốn của Chính phủ và nhân dân Việt Nam, và nó đã hỗ trợ tích cực
cho sự phát triển hợp tác lâu dài giữa Viêt Nam và Nhất Bản đặc biệt trong
các quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế.
Nếu tính từ năm 1992 đến nay, Nhật Bản đã luôn là nớc đứng đầu về
viện trợ ODA dành cho Việt Nam với tổng số vốn cam kết lên tới 509,804 tỷ
yên, tơng đơng trên 5 tỷ USD. Điều đó trớc hết thể hiện đờng lối mong
muốn tăng cờng hợp tác trên lĩng vực kinh tế với Việt Nam. Vốn ODA của
Nhật Bản dành cho Việt Nam đã tăng năm sau lớn hơn năm trớc. Điều đó có
một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nớc, đặc
biệt là quan hệ ngoại giao và kinh tế. Đồng thời nó cũng có tác độg không nhỏ
tới các quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam. Sau Nhật Bản thì một loạt các
nớc phát triển khác, các tổ chức quốc tế khác cũng đã nối lại và tăng cờng
viện trợ cho Việt Nam, hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng
của Việt Nam.
Nhìn một cách bao quát nhất, nguồn vốn ODA của Nhật Bản trớc hết
có vai trò bổ sung nguồn vốn trong nớc. Việt Nam bớc vào quá trình thực
hiện cải cách với điều kiện cơ sở hạ tầng còn hết sức thấp kém. Việc cải tạo
và phát triển nó đòi hỏi trớc hết phải có một nguồn vốn rất lớn, đọi hỏi này
mang tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở một nớc
chậm phát triển nh Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên việc huy động và sử dụng
nguồn vốn trong nớc còn rất nhỏ bé do mức tiết kiện trong nớc còn thấp, tỷ
lệ huy động vồn nhàn rỗi cho đầu t cũng ở mức rất khiêm tốn sẽ không đảm
bảo thoả mãn nhu cầu khách quan ấy.
Với ý nghĩa trên, ODA của Nhật Bản đợc xem nh một trong các
nguồn vốn cơ bản từ bên ngoài có thể thu hút để thúc đẩy nhanh sự phát triển
kinh tế, xã hội của Việt Nam. Ví dụ trong nhiều năm, đặc biệt năm 1998 nền
kinh tề Việt Nam gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hởng của cơn bão tài
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
chính ở Châu á, Chính phủ đã phải sử dụng tới cả ODA nh là một nguồn tài
chính bổ sung cho ngân sách: 3% để hỗ trợ ngân sách, 17% dành cho giáo dục
và đào tạo, 35% cho xây dựng cơ bản, 45% cho vay lại các dự án.
Có thể nhận thấy rằng bớc vào thời kỳ đổi mới, đặc iệt trong thập kỷ
90 vừa qua, trợ giúp phát triển chính thức dới dạng viện trợ không hoàn lại và
trợ giúp kỹ thuật của Nhật Bản đã phần nào giúp Việt Nam tiềp thu những
thành tựu khoa học và công nghệ mới, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá rút
ngắn thông qua chơng trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Đây đợc cho
là lợi ích căn bản, lâu dài mà ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam trong thập
kỷ qua.
Mặt khác, việc thu hút ODA Nhật Bản đã có một tác dụng nh lực hút
cho các nhà đầu t tới thị trờng Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển cơ sở
hạ tầng ở Việt Nam không chỉ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá ở Việt
Nam mà còn tạo ra môi trờng đầu t thuận lợi cho phía Nhật Bản. ODA đã
tạo sự tin cậy cho các nhà đầu t bỏ vốn vào Việt Nam. Đây đợc xem nh
một hệ quả tất yếu của mối quan hệ tơng tác giữa ODA và FDI của Nhật Bản
tại Việt Nam.
Thực hiện theo các cam kết cấp cao giữa chính phủ hai nớc, nguồn vốn
ODA này đã giữ vai trò quan trọng trong việc triển khai công cuộc cải cách
doanh nghiệp quốc doanh, tự do hoá thơng mại, cải tạo hệ thống tài chính
tiền tệ quốc gia đặc biệt là ngân hàng ở Việt Nam. Kết quả của những cải cách
đó sẽ giúp Việt Nam có thể hội nhập đợc với tiến trình phát triển chung của
khu vực và thế giới.
Tóm lại, viện trợ phát triển của nhật Bản cho Việt Nam trong giai đoạn
vừa qua về cơ bản là phù hợp với những u tiên phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam, đặc biệt là đã hỗ trợ cho Việt Nam cải thiện và phát triển cơ sở hạ
tầng, từng bớc nâng cao năng lực sản xuất và quản lý, góp phần chuyển giao
công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, từ đó Việt Nam từng bớc nâng cao
vai trò của nền kinh tế và vị thế của đất nớc.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
chơng II
tình hình viện trợ ODA của Nhật bản cho việt
nam từ 1992 đến nay
I. Tình hình tiếp nhận và giải ngân ODA ở Việt Nam
Về tiềp nhận: trong chiến tranh chống Mỹ Việt Nam đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với các nớc XHCN và nhận đợc nhiều khoản viện trợ. Sau
chiến tranh chúng ta vẫn tiếp tục nhận tài trợ ODA không những từ các nớc
XHCN mà cả từ các nớc TBCN, đặc biệt từ thập kỷ 90 đến nay viện trơ ODA
dành cho Việt Nam ngày càng tăng, có vai trợ quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của Việt Nam. Các nhà tài trợ song phơng và đa phơng chính đó lạ:
Đa phơng: Ngân hàng Thế giới (WB); Ngân hàng phát triển Châu á
(ADB); Các tổ chức phi chính phủ (NGO) và Liên hợp quốc
Song phơng: Nhầt Bản, Hàn Quốc, úc, Thụy Điển, Đài Loan, Pháp, Bỉ
và CanađaTrong đó Nhật Bản luôn là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam, với
những hình thức cung cấp đa dạng và u đãi. Bên cạnh đó WB, ADB cũng là
hai nguồn viện trợ lớn.
Bảng1: Tổng vốn ODA cam kết vào Việt Nam (Tỷ USD)
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 tổng
Cam kết 1,88 1,94 2,26 2,43 2,40 2,40 2,70 2,8 18,81
Giải ngân 0,27 0,62 o,66 0,98 1,015 1,04 1,2 0,785 5,798
(Theo: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA - NXB giáo dục - 2000)
Về giải ngân ODA nói chung và ODA nhật Bản nói riêng trong thời
gian qua và hiện nay của chúng ta, qua các t liệu tổng hợp cho thấy chiều
hớng viện trợ chính thức cho Việt Nam tiềp tục tiến triển thuận lợi ở một số
mặt quan trọng, song còn nhiều vấn đề thách thức.
Nếu tính từ tháng 11 năm 1992 tới năm 1997, trong gần 6 năm đầu Việt
Nam đợc nối lại viện trợ đa phơng (trong đó nguồn ODA của Nhật Bản
đóng vài trò quan trọng nhất với tỷ trọng luôn chiếm trên 50%) với các mức
cam kết rất cao, trung bình trên 2 tỷ USD/năm. Mức giải ngân cho tổng gói
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
ODA nói chung đã tăng đáng kể khoảng 1 tỷ USD/năm trong các năm 1996,
1997 và 1998. Mặc dù chiều hớng giải ngân ODA tăng lên chủ yếu do những
tiến bộ trong việc thực hiện các dự án và nó đợc triển khai trên một diện
tơng đối rộng, ở hầu hết các loại hình dự án ODA, kể cả các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng và hỗ trợ kỹ thuật. Tuy nhiên, so với thực tế thì việc giải ngân
còn nhiều vấn đề phải tính toán.
Xét riêng việc giải ngân vốn tín dụng u đãi ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam trong thời gian qua mới đạt mức trung bình tăng khoảng 4% năm.
Mặc dù đây đợc thừa nhận là có sự cố gắng rất lớn của Việt Nam, năm 1992
mức giải ngân mới chỉ đạt khoảng 3%; năm 1996 đạt 6%; năm 1998 đạt
14,9%.
Trong thời gian qua đã có một số chơng trình dự án ODA đã thực hiện
xong và hiện đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam nh nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên Phú
Mỹ 2 -giai đoạn 1; một số đoạn đờng, cầu trên các đờng quốc lộ số 1, số 5;
nhiều bệnh viện ở các thành phố và thị xã nh bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố
Hồ Chí Minh), Việt Đức (Hà Nội) và nhiều trờng học cũng đợc xây dựng ở
nhiều nơi.
Bên cạng những kết quả đạt đợc trong công tác huy động, tiềp nhận
quản lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ không ít tồn
tại ảnh hởng tới hiêụ quả sử dụng vốn. Tốc độ giải ngân đối với các dự án sử
dụng ODA các năm qua có tằng lên nhng vẫn còn quá chậm do các nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, khâu khảo sát thiết kế, chuẩn bị dự án chất lợg không cao
nên giai đoạn thực hiện dự án phải khảo sát, thiết kế lại, hoặc phải bổ sung
thiết kế mất nhiều giời gian và chính sách giải quyết thủ tục về đất đai không
đợc đồng bộ với chíng sách tín dụng.
Thứ hai, yêu cầu của các nhà tài trợ về việc chấp hành nguyên tắc đấu
thầu khắt khe và phức tạp, nên việc triển khai đấu thầu chập, quy trình đấu
thầu, xét thầu, giao thầu kéo dài hơn so với kế họach do có sự khác biệt giữa
thủ tục trong nớc và nớc ngoài.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Thứ ba, năng lực của các cơ quan thực hiện dự án còn hạn chế, trình độ
năng lực quản lý nợ của các cán bộ còn yếu kém, chính sách của nhà nớc
cha đầy đủ, đồng bộ, thủ tục hành chính còn rờm rà. Chính vì vậy việc giải
ngân ODA thấp và gây ra một số bất lợi cho Việt Nam, đó là các công trình
thực hiện không đúng tiến độ ảnh hởng tới tốc độ tăng trởng kinh tế giảm
hiệu quả sử dụng vốn, ảnh hởng tới thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội
đã họach định. Từ thực tế trên, để tăng cờng quản lý, tăng tốc độ giải ngân,
sử dụng nguồn vốn ODA hiệu quả, chúng ta cần có những biện phát hữu hiệu
hơn để phát huy đợc hiệu quả của nguồn vốn này trong phát triển kinh tế - xã
hội của đất nớc.
II. Viện trợ ODA Nhật Bản cho Việt Nam - những kết quả đạt
đợc và những khó khăn tồn tại.
Nhật Bản là nớc có quan hệ viện trợ cho Việt Nam từ rất sớm và chính
thức đợc phát triển từ năm 1975, nhng đến năm 1979 Nhật Bản đình chỉ vốn
ODA cho Việt Nam. Tháng 11 năm 1992 Nhật chính thức công bố nối lại viện
trợ ODA cho Việt Nam và bắt đầu cho Việt Nam vay 45,5 tỷ yên với lãi suất
u đãi 1%/ năm trong vòng 30 năm, trong đó 10 năm đầu không phải trả lãi.
Quyết định của Nhật Bản khôi phục viện trợ ODA cho Việt Nam có
một ý nghĩa quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, mở ra một thời
kỳ mới trong quan hệ hợp tác trên rất nhiều lĩng vực giữa hai quốc gia.
Về phía Nhật Bản, quyết định này phản ánh ý chí mạnh mẽ của Nhật
nhằm đóng vai trò lớn hơn và độc lập hơn trong việc tạo lập một hệ thống mới
những mối quan hệ quốc tế trong khu vực và trên thế giới, một vai trò tơng
ứng với tầm vóc kinh tế của Nhật Bản trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Quyết định này cũng đợc xem nh một dấu hiệu về việc công khai sự ủng hộ
của Nhật đối với chính sách đổi mới toàn diện của Việt nam, giúp Việt Nam
nhanh chónh hoà nhập với cộng đồng quốc tế mà trớc hết là với tổ chức
ASEAN, thúc đẩy quá trình bình thờng hoá quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam;
thiết lập các mối quan hệ về thơng mại và đầu t lâu dài với giới kinh doanh
Nhật Bản.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Về phía Việt Nam, trong thực tế việc Nhật Bản quyết định viện trợ
ODA trở lại cho Việt Nam vào thời điểm khi Mỹ vẫn cha xoá bỏ lệnh cấm
vận của họ với Việt Nam và tiếp tục gây áp lực ngăn cản Nhật Bản mở rộng
viện trợ cho Việt Nam, do vậy nối lại viện trợ là một nguồn động viên hết sức
to lớn cho Việt Nam. Nhật Bản viện trợ ODA trở lại không những chỉ giúp
kích thích sự phát triển trên các mặt kinh tế, xã hội của Việt Nam, thu hút
nhiều nguồn viện trợ và đầu t nớc ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc củng cố và phát triển mở rộng quan hệ thơng mại cũng nh hợp
tác kinh tế giữa hai nớc, mà còn đóng góp vào việc khái thác các nguồn viện
trợ đa phơng, tạo ra những cơ hội cho liên doanh với nớc ngoài ở Việt Nam
và tạo ra động lực để cải thiện và mở rộng các mối quan hệ quốc tế của Việt
Nam.
Cùng với việc cấp trở lại ODA song phơng cho Việt Nam, Nhật Bản đã
đóng vai trò tích cực trong việc giúp Việt Nam khai thác các nguồn viện trợ
khác từ các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế nh Ngân háng Thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ chức quốc tế khác. Nhật Bản là nớc cung
cấp viện trợ lớn nhất trong số 23 nớc và 17 tổ chc quốc tế tham dự Hội ghị
các nhà tài trợ cho Việt Nam đợc tổ chức lần đầu tiên trong lịch sử tại Paris
vào tháng 11 năm 1993 nhằm mục đích thảo luận phơng hớng trợ giúp đối
với quá trình khôi phục kinh tế ở Việt Nam.
Năm 1992 là năm đánh dấu bớc ngoặt trong quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản, đặc biệt thể hiện ở quan hệ viện trợ phát triển. Việt Nam trở thành 1
trong 10 nớc đứng đầu danh sách nhận viện trợ ODA song phơng của Nhật
Bản với số vốn là 281,24 triệu USD, đứng thứ 6 sau các nớc nh Inđônêxia là
1356,71 triệu USD, Trung Quốc: 1050,76 triệu USD, Philippin: 1030,67 triệu
USD, ấn Độ: 425,29 triệu USD và Thái Lan: 413,97 triệu USD. Nhật Bản
cũng đã trở thành nớc cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam, tiếp theo là
Thụy Điển: 59,01 triệu USD, Italia: 26,35 triệu USD và Pháp: 19,62 triệu
USD.
Đến năm 1993, Việt Nam xếp thứ 9 trong số các nớc nhận viện trợ
không hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 6720 triệu yên, sau Bănglađét với
19287 triệu yên rồi đến Philippin, Trung Quốc, Cămpuchia, Hylạp, Inđonêxia,
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Nêpan và Pakistan.Trong năm 1993 nhật Bản đã cam kết các khoản cho vay
hàng hoá và cho vay dự án giúp Việt Nam xây dựng lại cơ sở hạ tầng về kinh
tế và ký văn bản nghi nhớ vào tháng 1 năm 1994.
tháng 11 năm 1993 một nhóm chuyên gia Nhật Bản đợc cử sang Việt
Nam giúp soạn thảo Bộ luật Dân sự và cải cách hệ thống quản lý điều hành
chính ở các chính quyền địa phơng. Tháng 8 năm 1994, Thủ tớng Nhật Bản
Tomiichi Myazawa sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam đã ký các văn
kiện về việc viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 7733 triệu yên.
Năm 1994 Việt Nam đứng số 12 trong số các nớc nhận viện trợ không
hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 58,76 triệu USD. Ngoài ra, Nhật còn viện
trợ hợp tác kỹ thuật cho Việt Nam trị gia 24,46 trriệu USD. Việt Nam đứng
thứ 16 trong số các nớc nhận viện trợ song phơng của Nhật Bản. Đến đầu
năm 1995, Nhật Bản đã cho Việt Nam vay 165 tỷ yên, bao gồm cả 97,8 tỷ yên
từ khi khôi phục viện trợ vào năm 1992.
Đi đôi với việc nối lại viện trợ ODA song phơng cho Việt Nam, Nhật
Bản còn đóng vai trò tích cực giúp Việt Nam khai thác nguồn viện trợ từ các
tổ chức quốc tế. Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản cùng với 8 ngân hàng khác và
Ngân hàng Thơng mại của Pháp đã cho Việt Nam vay 85 triệu USD để thanh
toán các khoản nợ tín dụng của Quỹ Tiền tệ quốc tế, do vậy Việt Nam đã đợc
Quỹ Tiền tệ quốc tế cho vay 223 triệu USD vào năm 1993.
Năm 1995 khi Việt Nam đã thực sự hội nhập vào các quan hệ hợp tác
khu vực, những cải cách thị trờng đã trở nên hớp dẫn hơn đối với các nhà đầu
t Nhật, ví dụ độ rủi ro cho các khoản đầu t trực tiếp ít đi và Nhật Bản đã
thúc đẩy mạnh mẽ ODA cho Việt Nam. Ngày 21 - 4 - 1995, trong chuyến
thăm Nhật Bản của Tổng Bí th Đỗ Mời, Nhật Bản và Việt Nam đã ký một
hiệp định tín dụng trị giá 58 tỷ yên cho 8 dự án của Việt Nam, bao gồm: các
dự án về xây dựng nhà máy nhiện điện và thuỷ điện. Viện trợ không hoà lại để
cải tạo hệ thống cấp nớc khu vực Gia Lâm là 6,5 triệu yên, trang bị lại Khoa
Nông nghiệp Trờng Đại học Cần Thơ là 788 triệu yên, trang bị máy móc y tế
cho thành phố Hà Nội 590 triệu yên. Đây là khoản tín dụng u đãi với lãi suất
1,8%/ năm, thời gian vay 30 năm, trong đó 10 năm đầu không phải trả lãi. Hai
nớc cũng đã ký đợc một hiệp định viện trợ văn hoá với trị giá 42 triệu yên
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
để trang bị cho phòng học tiếng Nhật của Trờng Đại học Ngoại thơng.
Đồng thời Nhật Bản cũng cam kết viện trợ không hoàn lại 3 tỷ yên để hỗ trợ
công cuộc cải cách ở Việt Nam.
Tháng 6 năm 1995, trong chuyến thăm Việt Nam của Thứ trởng Ngoại
giao Nhật Bản, phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ không hoàn lại cho Việt
Nam 1947 triệu yên ( khoảng 23 triệu USD) để thực hiện giai đoạn hai, xây
dựng cảng cá Vũng Tàu; 238 triệu yên (khoảng 2,6 triệu USD) để thực hiện
chơng trình tiêm chủng mở rộng; và 85000 USD hỗ trợ cho Việt Nam tham
gia một số họat động của ASEAN. Tính chung trong năm 1995, Nhật Bản đã
thoả thuận cho Việt Nam vay 70 tỷ yên.
Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức của Bộ trởng Ngoại giao Nhật
Bản vào ngày 27 - 7 - 1996, phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ không hoàn lại
cho Việt Nam 3,557 tỷ yên (khoảng 35 triệu USD) cho dự án xây dựng cầu
nông thôn và miền núi phía bắc, và 45,1 triệu yên (khoảng 450.000 USD) viện
trợ văn hoá nhằm cung cấp thiết bị nghe nhìn cho Khoa tiếng Nhật Trờng
Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
Nhìn chung viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho Việt Nam
đã tăng khá nhanh. Trong thời gian 8 năm, từ 1992 đến 1999 Nhật Bản đã cam
kết cho Việt Nam vay 6.335 triệu USD, đặc biệt năm 1998 và 1999, mặc dù
vẫn còn rất khó khăn về kinh tế do ảnh hởng của cuộc khủng hoảng kinh tế,
nhng Nhật Bản vẫn cam kết cho Việt Nam vay 835 triệu USD (năm 1998) và
1,1 tỷ USD (năm 1999, chiếm hơn một nửa trong tổng số 2,1 tỷ USD mà các
nhà tài trợ quốc tế đã cam kết cho Việt Nam vay).
Bảng 2: Quy mô ODA của Nhật Bản cug cấp cho Việt Nam
(đơn vị tính:100 triệu yên)
Năm/ Loại hình 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Viện trợ không hoàn lại 19,19 75,86 80,47 121,48 125,47 125 143
Tín dụng u đãi 455 523,04 580 700 810 850 880
Lãi suất 1% 1% 1,8% 2,3% 2,3% 2,3% 2,3%
(Theo: Hỗ trợ phát triển chính thức ODANXB giáo dục - 2000)
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Bớc sang thế kỷ XXI, trong năn 2001 Chính phủ Nhật Bản đã chính
thức ký Hiệp định tài trợ cho các dự án quan trọng nh đờng dây tải điện
500KV Phú Mỹ - Nhà Bè - Phú Lâm (114,15 triệu USD), cầu Cần Thơ (216,04
triệu USD), viện trợ không hoàn lại 13,63 triệu USDcũng trong năm 2001 do
nền kinh tế bị suy thoái và ý kiến trong nớc phản đối việc gia tăng lợng
ODA ngày một cao, đồng thời nhằm hạn chế bớt khoản nợ chính phủ vốn đã
rất cao (130% GDP), Chính phủ Nhật Bản buộc phải cắt giảm ngân quỹ dành
cho ODA. Tuy vậy mức ODA cam kết cho Việt Nam trên cơ sở đồng yên vẫn
tăng 8% với mục đích nhằm hỗ trợ Việt Nam xây dựng các công trình cơ sở
hạ tầng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nh: Sân bay Tân Sơn Nhất, cầu
Bãy Cháy, cầu Thanh Trì, nhà máy nhiệt điện Ômôn v vTổng số ODA trong
năm 2001 gần 700 triệu USD.
Trong bài phát biểu của Thủ Tớng Nhật hồi giữa năm 2001, Nhật Bản
đã cam kết thúc đẩy viện trợ cho Việt Nam. Ngày 28 - 11 - 2001, nhân lễ kỷ
niệm lần thứ 10 Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam, hai bên đã thoả
thuận 5 lĩnh vực cơ bản mà nguồn vốn ODA sẽ tẩp trung vào: 1- Đào tạo con
ngời và xậy dựng cơ chế thúc đẩy việc dịch chuyển sang nền kinh tế thị
trờng; 2 - Nâng cầp cơ sở hạ tầng kinh tế nh điện lực, vận tải; 3 - Phát triển
nông nghiệp nông thôn; 4 - Giáo dục và chữa bệnh; 5 - Môi trờng.
Nhìn chung hình thức chủ yếu trong viện trợ ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam là dạng tín dụng u đãi, chiếm 90%. Tỷ lệ viện trợ không hoàn lại
trong ODA của Nhật Bản cho Việt Nam còn tơng đối thấp, khoảng 10%.
Hiện tại các khoản vay lớn nhất là khoản vay hàng hoá (53%), điện và khí đốt
(28%), giao thông vận tải và thông tin liên lạc (khoảng19%). Các hàng hoá
này đợc sử dụng cho mục đích ngắn hạn, nhng việc trả nợ lại là dài hạn, do
đó chúng cần đợc sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Các khoản ODA của Nhật Bản cũng nh các tổ chức quốc tế khác đều
chủ yếu hớng vào các dự án cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hạ tầng cơ sở
của Việt Nam nh nâng cấp đờng quốc lộ xuyên Việt, xửa chữa đờng xe lửa
Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh, nân cấp cảng Hải Phòng, cải tạo và hoàn
chỉnh các hệ thống cấp thoát nớc của một số tỉnh và thành phố.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét