Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

phương hướng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề.

SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Chỉ tiêu
Tiêu chuẩn
cho phép
Tinh bột
Bình Minh
Bún Phú
Đô
Nước mắm
Hải Thanh
Rượu
Tân Đô
Đậu phụ
Quang Bình
pH 5.5-9 4.6 6.1 9,59 12 5.1
SS(mg/l) 100 926 414 10 266 1.764
COD(ml/g) 100 1.858 2.967 597 3.868 1.271
BOD5(ml/g) 50 743 1.850 250 1.700 1.080
SN(ml/g) 60 145,6 20,9 9,26 1.002 67
SP(ml/g) 6 27,5 2,79 0,034 44,2 23
Chỉ tiêu tại một số làng nghề chế biến nông sản
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy đa phần các nước thải đều bị ô nhiễm
nặng thậm trí dân cư ở những vùng này phải mua nước ngột từ nơi khác để sử
dụng. Mặt khác các làng nghề này đều tận thu phế liệu để chăn nuôi. Nước thải
từ nguồn này cũng gây ô nhiễm môi trường không khí và nước đáng kể. Theo
kết quả điều tra y tế ta mới thấy rõ hết được ảnh hưởng của môi trường đến sức
khoẻ của người dân như: phụ khoa ở phụ nữ là 13-38%; viêm da là 4,5-23%;
đường hô hấp là 6-18%; đau mắt là 9-15%. Nguyên nhân chính là môi trường
sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh, nguồn nước sạch khan hiếm.
Xét một ví dụ cụ thể tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề tại Dương
Liễu, Hoài Đức, Hà Tây chuyên chế biến các sản phẩm nông sản đã có uy tín
trên thị trường như miền dong, đỗ xanh bóc tách, bún khô, phở khô… Khi về
làng, ấn tượng đầu tiên không phải là những ngôi nhà tầng khanh trang mới
được xây dựng mà là rác và ruồi muỗi. Rác có khắp ở các nơi với đủ các loại
như rác khô, sợi, nước cốt… tràn ra mặt đất chảy xuống cống, ao hồ, mương
máng với những mùi đặc trưng phả vào không khí. Không khí, đất đều đang bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Trong làng có khoảng 2000 hộ sản xuất và trung bình mỗi
ngày thải ra 433 tấn giác thải các loại chưa qua xử lý. Nhiều nhất là nước thải và
rác thải từ việc làm miến, ngày đêm thải ra những thứ đen ngòm, đặc quánh
chồng chất lên nhau cao hàng mét. Trước kia làng có rầt nhiều ao hồ, mương
5
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
rãnh đan chéo nhau nhưng bây giờ đã bị rác thải “san bằng” trở thành bãi phơi
miến, là nơi để ruồi, nhặng phát triển.
2. Ô nhiễm môi trường tại các làng vật liệu xây dựng và gốm xứ:
Hiện nay nước ta hiện có 31 làng sản xuất vật liệu xây dựng và gốm xứ
phân bố đều trên cả nước và tập chung tại các vùng có khả năng cung cấp
nguyên liệu cho hoạt động sản xuất. Số lượng làng nghề tăng theo nhu cầu của
thị trường. Hoạt động sản xuất bao gồm khai thác đá, nung vôi đóng gạch ngói,
gốm xứ. Một số làng được biết tới nhiều như: gốm xứ Bát Tràng ở Gia Lâm, Hà
Nội; Đáp Cầu, Bắc Ninh; Phước Lâm, Khánh Hoà; Dạ Trạch, Hưng Yên… Các
tác động chủ yếu đến môi trường là do bụi và khói lò nung. Quy mô nung gạch,
vôi chủ yếu theo phương pháp thủ công sử dụng nguyên liệu là than, khí thải ra
từ các lò nung là CO, SO, SO
2
…bởi vì thiết kế không đúng quy cách do vậy quá
trình cháy không hết. Đã có một số lò nung gốm xứ thay lò đốt than bằng lò đốt
gas vừa khỏi ô nhiễm môi trường vừa nâng cao năng suất sản phẩm, rút ngắn
thời gian nung đốt tính ra thì hiệu quả kinh tế vẫn cao hơn khi sử dụng lò than
nhưng chi phí ban đầu khá tốn kém. Một số hộ gia đình đã chuyển sang lò gas
nhưng Đối với các làng nghề khai thác đá, ô nhiễm chủ yếu là bụi từ khu vực
khai thác và tiếng ồn do nổ mìn của các hoạt động của máy khoan, đục, nghiền,
xay… Việc khai thác 1m
3
đá nguyên khai qua chế biến sẽ sinh ra 0,1-0,5kg bụi
giầu silic,vượt tiêu chuẩn cho phép từ 3-5 lần và tiếng ồn thưong xuyên ở mức
cao. Lượng khí thải từ các lò gạch thủ công còn ảnh hưởng đến hoa mầu và mùa
màng của nông dân tại các làng nghề và các vùng lân cận xung quanh nữa.
Ngoài ra việc khai thác không đúng quy hoạch gây thoái hoá đất, phá huỷ thảm
thực vật, tăng nguy cơ xói mòn và giảm độ phì nhiêu của đất, hậu quả cũng gây
ảnh hưởng đến chất lượng mùa màng. Người dân làng nghề sản xuất vật liệu xây
dựng trực tiếp sống trong môi trường có nồng độ bụi, khí độc cao công việc
6
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
nặng nhọc nên tỷ lệ mắc các đường hô hấp, da và các bệnh về mắt và các rối
loạn thần kinh cao. Làng nghề Đông Tâm, Thanh Hoá và làng nghề Kiện Khê,
Hà Nam có tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp do sản xuất trên 50%. Ngoài ra, các vấn
đề về an toàn lao động cũng chưa được quan tâm thoả đáng ở các làng nghề này
dẫn tới nhiều tai nạn lao động như bỏng hơi, bỏng nhiệt, bị mảnh vỡ đá. nổ
mìn…
3. Làng nghề tái chất thải: giấy, nhựa, kim loại…
Đây là nhóm làng nghề tận phế liệu làm nguyên liệu cho sản xuất, nhờ đó
giảm chi phí đầu tư và giảm lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường nên các
làng nghề rất được khuyến khích phát triển. Mặt khác, trong khi chưa có các cơ
sở lớn tái chế chất thải, thì các làng nghề tái chất thải đã trở thành một mạng
lưới thu gom phế liệu và chất thải. Các nghành tái chế được chia làm ba loại
chính đó là: giấy, kim loại và nhựa. Chủ yếu tập chung ở miền Bắc và nghành
tái chế kim loại là chủ yếu (có 81 làng tái chế kim loại trong tổng số 90 làng
nghề tái chế). Số lượng làng tái chế không lớn nhưng tỷ lệ cơ giới hoá cao hơn
các làng nghề khác rất nhiều, chiếm từ 50-70%. Khi nói về các làng tái chế phế
liệu thì không thể không nhắc tới làng tái chế giấy ở Dương Ổ, Bắc Ninh sản
xuất hàng năm là 12.000 tấn với rất nhiều chủng loại, thu hút hơn 5.000 lao
động. Hay tái chế sắt nhôm ở Vân Chàng, Nam Định thu hút trên 3.000 lao động
với sức sản xuất 90 tấn phế liệu/ngày, mức lương trung bình của một người lao
động là 600-700nghìn/tháng. Hay làng nghề khắc đá tại Phước Kiều, Quảng
Nam - Đà Nẵng được biết tới bởi những tác phẩm nghệ thuật rất cao như cung
đình Hếu, trùng tu di tích Ăng Ko…
Do đặc thù là các làng nghề mới và sản xuất theo quy mô hộ gia đình nên
tính năng động và sáng tạo trong việc nắm bắt thi trường và sản phẩm rất rõ ở
7
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
các làng nghề này. Cũng do đặc tính quá tư hữu này mà vấn đề môi trường ở đây
vô cùng nghiêm trọng. Trên báo Thương mại số 35, 2003 có bài viết “Xám xịt
làng chì” như sau:
“Không đi làm thì ai cho 3-4 trăm nghìn một thán. Hại thì ai mà chả biết
nhưng không có ăn thì vài ngày là chết chứ nhiễm chì thì nào có chết ngay” (dân
làng Đồng Mai, Văn Lâm, Hưng Yên).
Làng nghề tái chế Đông Mai có 200 hộ tham gia sản xuất, 25 lò nấu chì,
tiêu thụ 16-18 tấn ắcquy hỏng/ngày, thu 8-10 tấn chì, thải ra 500kg bụi chì và từ
7-8 vỏ bình ắcquy và axít H
2
SO
4
, thu nhập bình quân đầu người là 3 triệu
đồng/năm.
Ô nhiễm môi trường khí: Tầm nhìn hạn chế là 3-4km, hơi axít và khói chì
bao phủ, lúa chết vì khói chì, bụi chì bám vào cây.
Ô nhiễm môi trường nước: Ao và nước giếng có hàm lượng chì trung bình
0,77mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 15 lần, đặc biệt ao đãi chì và đổ xỉ hàm
lượng 3,278mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 65 lần. Trong bèo chứa 430,3mg
chì/kg, rau muống 168,15mg chì/kg tại ao chứa nước thải pha ắcquy.
Ô nhiễm môi trường đất: Đường trong xóm lát bằng vỏ ắcquy hỏng, đất
khô cằn, năng suất cây trồng giảm mạnh.
Sức khoẻ: 100% người lao động nhiễm bụi chì, hàm lượng chì trong nước
tiểu là 0,25-0,56mg/l (đối với người bình thường khoảng 0,06mg/l), hàm lượng
chì trong máu người lao động là 135mg/l, 48 trẻ em bị dị tật, 97 trẻ em bị viêm
phổi, thiếu máu, xanh xao, tỷ lệ người mắc bệnh thần kinh, bại liệt não, lao phổi
cao hơn các nơi khác từ 2-3 lần.
8
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Bài báo trên đã là một minh chứng khá cụ thể và dễ hiểu về tình trạng ô
nhiễm tại các làng nghề tái chế phế liệu chì.
Nếu ai có cơ hội đến thăm các xưởng sản xuất, tái chế giấy phế liệu ở
Phong Khê, Bắc Ninh cách Hà Nội khoảng 50km đi về phía Bắc thì mỗi khi
dùng giấy ăn ở các quán bình dân rất phổ biến thì chắc hẳn mọi người phải “cân
nhắc” sử dụng. Nước thải không được xử lý qua bất kỳ công đoạn nào và được
thải trực tiếp ra ngoài do vậy hoá chất dư, bột giấy và lượng chất hữu cơ còn lại
rất nhiều. Hơn nữa, không khí ở đây chứa rất nhiều bụi giấy, hơi kiềm, Clo do
dùng nước ra Javen để tẩy trắng và hơi H
2
S rất có hại cho sức khoẻ. Tại một số
vị trí sản xuất, hàm lượng Clo vượt tiêu chuẩn cho phép tới 3 lần, hơi H
2
S tại các
bãi rác, cống rãnh vượt tiêu chuẩn cho phép 1-3 lần.
Đối với các làng nghề tái chế nhựa, do đặc thù nguyên liệu thu gom từ
nhiều nguồn và đều là nhựa phế thải có dính nhiều tạp chất, nên trong quá trình
công nghệ sử dụng rất nhiều nứơc để rửa phế liệu. Tính riêng làng nghề tái chế
Minh Khai hàng năm thải ra khoảng 455.000m
3
nước thải. Thành phần của này
rất phức tạp, vì chứa rất nhiều chất thải vô cơ và hữu cơ dính trên nhựa trong
quá trình sử dụng, trong đó có một số chất độc hại như bình chứa thuốc sâu, hoá
chất, vi sinh vật độc hại.
Tóm lại ô nhiễm tại các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng
(nguồn nước bị nhiễm chì, kim loại nặng; không khí chứa nhiều hoá chất độc
hại…).
9
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Được mô tả bởi bảng số liệu sau đây:
Nơi lấy mẫu Cr
2+
∑Fe Pb
2+
Cu
2+
Zn
2+
Al
3+
Chỉ Đạo-Bắc
Ninh
0,04 0,4 0,35 0,1 0,6 -
Vân Chàng-Nam
Định
63 – 178 12 0,9 1,5 8,7 10,4
Phước Kiều-
Quảng Nam
0,2 7,6 0,6 3,1 1,8 2,1
Tiêu chuẩn Việt
Nam
1 5 0,1 1 1 -
Hàm lượng một số kim loại nặng trong nước tại các làng nghề
Do việc thu gom và thải thải bỏ bừa bãi, nên ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái và sức khoẻ của người dân hết sức nghiêm trọng. Hầu hết các ao cá
trong làng không thể nuôi cá, do đã tiếp nhận một lượng chất thải khá lớn từ
hoạt động sản xuất với nồng độ ô nhiễm cao, vượt quá khả năng tự làm sạch của
môi trường và do rác thải bừa bãi gây bồi lắng và cản trở của sông hồ và cản trở
của nước sông hồ. Ví dụ tại sông Vân Chàng, Nam Định, nơi đón nhận tất cả các
nguồn nước thải của “nền công nghiệp làng” có mầu đen kịt, mùi hôi rất khó
chịu và độ lưu thông của dòng nước rất thấp. Bụi bám thành lớp trên mái nhà,
khi trời mưa sẽ cuốn theo lớp hoá chất này xuống bề mật đất sau đó ngấm vào
mạch nước ngầm, còn nếu xối vào tay chân sẽ gây phồng rộp rất rất dát. Lượng
nước thải chưa được xử lý được đổ thẳng ra sông chứa một lượng lớn nhiều loại
axít mạnh và đặc biệt có hàm lượng chất độc xianua vượt 65-117 lần so với tiêu
chuẩn cho phép. Thậm chí một đoạn sông Vân Chàng không có một sinh vật nào
có thể sống được. Một số bệnh phổ biến ở đây là bệnh ngoài da, viêm ngứa, đau
mắt hột (hơn 90% dân số bị mắc), và nhiều người bị chết vì ung thư. Tỷ lệ chị
em phụ nữ đẻ non hoặc chết yểu đặc biệt là đẻ ra quái thai ngày càng có triệu
10
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
chứng ra tăng. Tuổi thọ trung bình của người dân ở đây là 55 tuổi thấp nhiều
hơn so với tuổi thọ trung bình so với cả nước.
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề chế
tái cao hơn các làng nghề không sản xuất từ 15-25%, tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ em và
phụ nữ từ 30-45%. Các bệnh mắc phải thường là về đường hô hấp, viêm phế
quản, viêm phổi ở trẻ em, viêm phụ khoa ở phụ nữ, tuổi thọ trung bình tại đây
thấp thường là 55-65 tuổi và các bệnh dịch như tiêu chảy, đau mắt đỏ, ngộ độc
ngày một tăng, đặc biệt tại các làng nghề tái chế kim loại.
4. Làng nghề dệt nhuộm
Nước ta hiện nay có 173 làng nghề dệt nhuộm chiếm 10% trong tổng số
làng nghề, chủ yếu tập chung ở Hà Tây và các vùng núi phía Bắc. Tại các dân
tộc thiểu số niềm núi phía Bắc là nền kinh tế tự cung, tự cấp nên sản phẩm dệt
nhuộm chủ yếu là phục vụ nhu cầu trong gia đình, thì tình trạng ô nhiễm môi
trường ở đây không đáng lo ngại lắm. Vì quy mô sản xuất là hộ gia đình, nguyên
liệu chủ yếu là thực vật không có hoá chất cộng thêm môi trường rất trong lành
nhưng nền kinh tế cực kỳ khó khăn. Công nghệ tại các làng nghề dệt nhuộm khá
phong phú. Tại các vùng, miền khác nhau thường có công nghệ sản xuất và mặt
hàng truyền thống khác nhau, mang nét đặc trưng riêng. Có thể kể tên một số
làng nghề nổi tiếng như dệt lụa Vạn Phúc- Hà Đông, nhuộm sợi chỉ Tân Triều-
Hà Nội, dệt nhuộm khăn mặt Thái Phương-Thái Bình và Tương Giang - Bắc
Ninh… Phần lớn máy móc thiết bị sử dụng tại các làng nghề là thiết bị thô sơ, tự
tạo hoặc do các cơ sở sản xuất trong nước gia công lắp ráp. Phương thức sản
xuất thường là gián đoạn, thiết bị thiếu đồng bộ dẫn đến việc giảm hiệu quả sử
dụng nguyên vật liệu đồng thời vấn đề ô nhiễm môi trường trở nên bức xúc hơn.
11
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Ô nhiễm nước thải là vấn đề lớn nhất đối với các làng nghề dệt nhuộm. Do
sản xuất có sử dụng nhiều nước, hoá chất, thuốc nhuộm nên thành phần các chất
ô nhiễm có trong nước thải làng nghề dệt nhuộm gồm các tạp chất tự nhiên tách
ra từ sợi vải như: chất bẩn, dầu sáp, hợp chất chứa nitơ trong quá trình nấu tẩy,
nhuộm tơ và các chất sử dụng trong quá trình sử dụng vải như hồ tinh bột,
NaOH, H
2
SO
4
, HCl, Na
2
CO
3
, các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10-
30% lượng thuốc nhuộm và hoá chất sử dụng bị thải ra ngoài cùng nước thải.
Ô nhiễm môi trường không khí ở các làng nghề dệt nhuộm chủ yếu là bụi
và hơi hoá chất. Bụi bông sinh ra trong quá trình giàn sợi, xe sợi, dệt vải,. Hơi
hoá chất phát sinh trong quá trình nấu, tẩy, nhuộm do sử dụng hoá chất ở nhiệt
độ cao và các thiết bị sản xuất đều là các thiết bị hở làm cho hơi hoá chất như
xút, axít bay ra ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân sản xuất và những người
xung quanh. Khí thải lò đốt chứa nhiều chất gây ô nhiễm môi trường như CO
2
,
SO
2
, NO, NO
2
, NO
3
, N
2
O
5
… và bụi. Tại các làng nghề này hầu như chưa có hệ
thống hút bụi thông gió để giảm lượng bụi bông trong khu vực sản xuất, người
lao động chủ yếu dùng khẩu trang để bảo vệ sức khoẻ của mình. Tình trạng do
hơi hoá chất cũng chưa có biện pháp khác phục. Các cơ sở sản xuất đều không
có ống khói và đều không có hệ thống xử lý khí thải lò đốt.
Điều kiệm làm việc tại các làng nghề này đều có độ ồn cao, thiếu ánh sáng,
chế độ gió và môi trường không trong lành, thời gian làm việc kéo dài. Kết quả
điều tra y tế tại các làng nghề cho thấy các bệnh về ngoài da, viêm mũi, viêm
họng, suy nhược thần kinh là các bệnh rất phổ biến. Nguyêu nhân tác động đến
sức khoẻ do sản xuất chiếm tới 20% ở làng nghề tơ tằm Bảo Lộc, Lâm Đồng,
chiếm 55% ở làng nghề dệt nhuộm Thái Phương, Thái Bình, chiếm 45% ở Vạn
Phúc, Hà Đông, Hà Tây. Các bệnh này ngưòi dân thường coi nhẹ và do điều
kiện sống quá thấp nên họ thường quan tâm đến miếng cơm, manh áo nhiều hơn
12
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
do vậy vấn đề sức khoẻ chưa được chăm sóc thoải đáng. Kể cả các tổ chức xã
hội hay các hiệp hội làng nghề, các công trình nghiêm cứu khoa học để giảm
thiểu, khắc phục ô nhiễm môi trường tại các làng nghề dệt nhuộm đều bị lãng
quên. Hiện nay đã có các dự án về việc kết hợp nghành du lịch với các làng nghề
dệt truyền thống như làng Vạn Phúc-Hà Đông được đưa ra làm thí điểm nhưng
vì vấn đề ô nhiễm tại đây mà các tour du lịch ấy tỏ ra kém hiệu quả mặc dù ý
tưởng được đưa ra rất hay. Hy vọng trong thời gian tới, một số sản phẩm của các
làng nghề dệt nhuộm có chất lượng tốt, độc đáo còn môi trường làng nghề lại
trong lành.
5. Làng thủ công nnỹ nghệ:
Trong số 1450 làng nghề thủ công trong cả nước, số lượng các làng nghề
thủ công mỹ nghệ là cao nhất chiếm 618 làng. Các loại thủ công mỹ nghệ chính
bao gồm:
-Mây tre đan, thêu ren, sản phẩm cói, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài
-Gốm sứ mỹ nghệ
-Các sản phẩm khác
Sản xuất thủ công mỹ nghệ là ngành sản xuất gán với truyền thốn lâu đời,
nhiều sản phẩm có giá trị văn hoá cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ yêu cầu chất lượng có giá trị cao cả về giá trị
lẫn thẩm mỹ nghệ thuật nên các lao động trong các cơ sở sản xuất phải có tay
nghề cao. Tại một số làng nghề, quá trình sản xuất được chuyên môn hoá một
cách chặt chẽ, lao động chuyên môn được lựa chọn rất kỹ càng. Tuy nhiên công
nghệ sản xuất mang tính thủ công nên giá trị nghệ thuật của mỗi sản phẩm rất
khác nhau, dưới mỗi một bàn tay nghệ nhân khác nhau thì mỗi tác phẩm lại chứa
một giá trị khác nhau.
13
SV: Nguyễn Thị Bích Phương GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ cũng đang đứng trước những khó khăn
về môi trường. Do hạn chế về vốn và kỹ thuật nên nhiều nơi chưa quản lý chặt
chẽ vấn đề thu gom, xử lý chất thải của sản xuất, khói bụi độc hại. Tại nhiều
làng nghề, môi trường đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Hầu hết các cơ sở sản xuất
trong làng chỉ chú trọng đến sản xuất, kinh doanh không chăm lo đến bảo vệ
môi trường sinh thái, kết quả là ở một số nơi quy mô sản xuất đã vượt quá sức
chịu đựng của môi trường.
Phân loại theo tác động của sản xuất đến môi trường thì có thể chia làm ba
nhóm lớn sau đây:
Nhóm không gây ô nhiễm môi trường: làm nón, dệt chiếu, đan cói…
- Nhóm gây ô nhiễm nhẹ: đan nát mây tre, cỏ tế, đồ gỗ, đá mỹ nghệ, sơn
mài…
- Nhóm gây ô nhiễm nặng: gốm, sứ và chạm mạ bạc…
Đối với môi trường nước, loại hình gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất là các
làng nghề sơn mài và chạm bạc. Lượng nước tiêu thụ tuy không lớn nhưng có
chứa hàm lượng chất ô nhiễm rất cao. Tại làng nghề sơn mài Hạ Thái (Hà Tây)
hàm lượng COD, BOD và SS đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,8 đến 3,5
lần. Đối với làng nghề chạm bạc, nước thải từ công nghệ mạ có sử dụng nhiều
hoá chất như axít H
2
SO
4
, HNO
3
, các muối thuỷ ngân, muối bạc, xianua. Sự có
mặt của các hoá chất này làm cho nước thải mạ bạc có độ pH thấp, hàm xianua,
kẽm, thuỷ ngân cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Cũng như hầu hết các làng nghề
khác, nguồn nước thải này được hoà lẫn vào nguồn nước thải sinh hoạt và thải ra
theo hệ thống mương chung.
Ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu chia làm ba loại. Ô nhiễm bụi từ
các làng nghề sản xuất gốm xứ và chế chế tác đá mỹ nghệ do sử dụng nguyên
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét