Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

Chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ máy tính xách tay tại Việt Nam của Công ty cổ phần thiết bị tổng hợp máy văn phòng Sara

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Bàn phím: máy tính xách tay thường không tuân theo tiêu chuẩn của các
bàn phím máy tính cá nhân thông thường, phần phím số (Num Lock) thường
được loại bỏ mà để thay thế nó bằng cách sử dụng các phím có vị trí tương tự để
thay thế. Ngoài các phím chức năng thường thấy (như F1, F2 đến F12) trên các
bàn phím thông dụng của máy tính cá nhân, máy tính xách tay còn có có một loạt
các phím chức năng dành riêng khác, các phím này thường là chức năng thứ hai
của các phím thường và chỉ được kích hoạt sau khi đã bấm phím chuyển đổi,
phím chuyển đổi thường có ký hiệu Fn.
- Loa: luôn được tích hợp sẵn trên máy tính xách tay nhưng chúng có chất
lượng và công suất thấp.
- Webcam, Micro: cũng thường được tích hợp ở một số máy tính xách tay
sản xuất những năm gần đây. Chúng có công dụng giúp người sử dụng có thể hội
họp trực tuyến hoặc tán ngẫu thông qua mạng Internet.
Một số chức năng thường thấy:
• Chức năng khôi phục nhanh: Để khôi phục hệ thống nhanh nhất khi xảy ra
lỗi, máy tính xách tay thường được thiết kế các hình thức khôi phục hệ thống
thông qua các bộ đĩa CD hoặc DVD (điều này cũng thường thấy trên một số máy
tính cá nhân để bàn sản xuất đồng bộ của các hãng sản xuất phần cứng), hoặc
bằng một nút (có thể có phương thức một vài thao tác) từ dữ liệu lưu sẵn trên ổ
cứng (thường đặt trên các phân vùng ẩn). Các khôi phục của chúng gần giống
như hình thức khôi phục bằng phần mềm "Ghost" (của hãng Symantec) hoặc một
số phần mềm sao lưu ảnh phân vùng đĩa cứng mà không thực hiện hình thức cài
đặt thông thường.
• Nhận dạng vân tay: Để tăng mức độ bảo mật, một số máy tính xách tay
được trang bị hệ thống nhận dạng (sinh trắc học) vân tay, người sử dụng chỉ có
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
thể khởi động hệ thống nếu máy nhận ra đúng vân tay của chủ sở hữu máy tính
(với vân tay được lưu sẵn trên máy).
1.2/ Đặc điểm thị trường máy tính xách tay tại Việt Nam.
1.2.1/ Khái niệm về thị trường của doanh nghiệp thương mại
Ở phạm vi của doanh nghiệp thương mại (DNTM), thị trường là một hay
nhiều nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự nhau và những
người bán cụ thể nào đó mà doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua
hàng hoá, dịch vụ để thoả mãn nhu cầu trên của khách hàng.
Như vậy, theo quan niệm của người bán, thị trường của DNTM trước hết
là những khách hàng có tiềm năng tiêu thụ, có nhu cầu cụ thể về hàng hóa, dịch
vụ trong một thời gian nhất định và chưa được thoả mãn chứ không thể quan
niệm thị trường đơn thuần là một khu vực hay một phạm vi địa lý nào đó. Thứ
hai, yếu tố quan trọng và làm đối trọng với cầu trên thị trường là cung về hàng
hoá, dịch vụ do các cá nhân, doanh nghiệp là người bán trong nền kinh tế quốc
dân tạo nên, chính sự tương tác qua lại với nhau giữa cung và cầu về hàng hoá
tạo nên quy luật cung cầu chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường.
Thứ ba, thành phần không thể thiếu được tham gia thị trường của các DNTM là
các hàng hoá, sản phẩm cụ thể, đối tượng để mua bán, trao đổi.
Một khi trên thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán và nhiều loại
hoàng hoá tương tự nhau về chất lượng, giá cả tất yếu nảy sinh sự cạnh tranh.
Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về phương thức giao dịch mua bán, thanh
toán; cạnh tranh giữa người mua với người mua; cạnh tranh giữa người bán với
người mua; cạnh tranh giữa người bán với người bán và giữa những người mua
bán với nhau. Cạnh tranh là bộ máy điều chỉnh trật tự thị trường, là yếu tố quan
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
trọng kích thích tính tích cực, tính đa dạng và nâng cao chất lượng hàng hoá cho
phù hợp với nhu cầu thị trường.
1.2.2/ Đặc điểm và các yếu tố cấu thành thị trường máy tính xách tay tại Việt
Nam.
Thị trường máy tính xách tay do bốn yếu tố cấu thành: cung, cầu, giá cả và
cạnh tranh. Cầu về máy tính xách tay: là lượng máy tính xách tay mà người mua
muốn mua ở một mức giá chấp nhận được. Cầu là một đại lượng mà đại lượng
này thay đổi theo sự phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Chẳng hạn, giá
cả, thu nhập của người tiêu dùng, giá cả mặt hàng thay thế, thói quen, nghề
nghiệp, giới tính, tuổi tác…Giả sử, các yếu tố tác động khác không thay đổi, cầu
sẽ tăng lên khi giá cả giảm và ngược lại, cầu sẽ giảm khi giá cả tăng lên.
Cách đây vài năm, chiếc máy tính xách tay là thiết bị xa xỉ, cao cấp, là niềm mơ
ước của rất nhiều người; thị trường máy tính xách tay vẫn còn chưa phát triển,
cầu về sản phẩm này ở mức thấp. Số người sử dụng máy tính xách tay chưa
nhiều do giá thành một chiếc máy tính khá cao so với thu nhập của họ. Hiện nay
thị trường máy tính xách tay Việt Nam đang bùng nổ với tốc độ tăng trưởng 3
con số do giá giảm, thu nhập bình quân tăng, sự thay đổi công nghệ nhanh chóng
và nhu cầu di động ngày càng tăng. Đặc biệt, sự tăng trưởng nhanh của nền kinh
tế và sự bùng nổ thị trường chứng khoán cũng làm xuất hiện một lớp người có
nhu cầu máy tính xách tay. Từ giữa năm 2005, mức tiêu thụ máy tính xách tay ở
thị trường Việt Nam đã tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2004, đạt 28.500
chiếc (chưa kể máy tính xách tay cũ và máy không có nhãn hiệu). Trong năm
2005, loại máy tính xách tay giá 26-30 triệu đồng được tiêu thụ mạnh nhất, với
26% thị phần. Tuy nhiên, so với tổng nhu cầu máy tính của cả thị trường thì máy
tính xách tay mới chỉ chiếm khoảng 10%. Ở các nước phát triển, con số này là
30%. Vì vậy, tương lai không xa tỷ lệ ấy tiêu thụ ở thị trường Việt Nam sẽ đạt
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
mức bình quân của thế giới. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển của thị trường
này là rất lớn. Từ đầu năm 2007 đến nay, thị trường máy tính xách tay ngày càng
trở nên sôi động. Năm 2007 Việt Nam tiêu thụ khoảng hơn 18.0000 chiếc máy
tính xách tay, tăng gấp 2 lần so với năm 2006 về số lượng (97.000 chiếc). Tại
một số các cửa hàng có tiếng ở Hà Nội như Trần Anh, Mai Hoàng luôn tấp nập
khách mua hàng. Bán lẻ nhiều nhất là máy nhãn hiệu Acer, HP, Lenovo IBM.
Sang năm 2008, sức tiêu thụ máy tính xách tay vẫn giữ ở mức tăng “nóng” và dự
báo năm 2008 Việt Nam sẽ tiêu thụ khoảng 320.000 chiếc máy tính xách tay các
loại.
Đa số người kinh doanh máy tính cho rằng nguyên nhân của sức mua tăng
vọt là do tâm lý người tiêu dùng cũng như điều kiện kinh tế của người dân đã ổn
định, cộng với việc nhiều gia đình chú trọng đầu tư hơn cho công việc học tập
hơn là mua sắm thiết bị sinh hoạt, tiêu dùng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp máy
tính cũng cần chú trọng vào khối lượng cầu cụ thể về từng loại máy tính xách tay
của doanh nghiệp mình ứng với mỗi mức giá nhất định.
Cung về máy tính xách tay: là lượng máy tính xách tay mà người bán
muốn bán ở mỗi mức giá chấp nhận được. Cung là một đại lượng mà đại lượng
này thay đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Cung phụ thuộc vào giá cả hàng hóa
dịch vụ. Cung sẽ tăng lên khi giá cả hàng hoá dịch vụ tăng lên và cung sẽ giảm
xuống khi giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống, nếu các yếu tố khác không thay
đổi. Các yếu tố khác đó là: sự phát triển của khoa học công nghệ mới, các chi phí
của các yếu tố đầu vào, sự điều tiết của chính phủ (thuế)… Giống như đại lượng
cầu, DNTM không phải xác định tổng đại lượng cung của toàn bộ xã hội mà xác
định số lượng hàng hoá dịch vụ doanh nghiệp có khả năng đưa ra thị trường ứng
với mức giá nhất định.
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều hãng cung cấp máy tính xách tay chủ
yếu là các hãng của nước ngoài. Các nhà doanh nghiệp ước tính, máy tính
thương hiệu nước ngoài hiện chiếm đến 80% thị phần, trong đó đứng đầu là
Acer, IBM, Toshiba, HP. Dù chất lượng không mấy khác biệt, nhưng sản phẩm
của nước ngoài có hình thức đẹp hơn hẳn hàng lắp ráp trong nước. Hơn nữa,
người tiêu dùng vẫn ưa chuộng các thương hiệu nổi tiếng thế giới hơn. Ngoài ra,
nhiều cơ sở đang nhập máy tính xách tay cũ về sửa chữa, nâng cấp rồi tung ra thị
trường bán với giá rẻ. Do vậy, máy tính xách tay thương hiệu Việt Nam chưa
được nhiều người lựa chọn. Những năm trước, do sức mua chưa cao, nên không
có nhiều công ty trong nước quan tâm đến sản phẩm này. Trong hơn 30 doanh
nghiệp lắp ráp máy tính thương hiệu Việt Nam, chỉ một số ít công ty làm máy
tính xách tay, gồm: Mekong Green, FPT Elead, CMS Nhưng nay tình hình
đang thay đổi, nhu cầu đang phát triển mạnh đã bắt đầu thu hút nhiều doanh
nghiệp. Ngoài những tên tuổi kể trên, trên thị trường gần đây đã xuất hiện thêm
sản phẩm của Công ty Khai Trí, GCC Ở thị trường MTXT Việt Nam, hãng
máy tính Đài Loan Acer giữ vị trí độc tôn về thị phần nửa đầu năm 2007 (khoảng
50% thị phần) với mức tăng trưởng khoảng 300% so với cùng kỳ năm 2006.
Trong đó, phân khúc bán chạy nhất là các máy tính dưới 1000 USD, chiếm
khoảng 70 - 80 % số lượng máy tính bán ra của Acer. Thương hiệu đứng vị trí
thứ hai về thị phần là HP, vị trí thứ ba là Tosiba (10%). CMS của Việt Nam
chiếm khoảng 4- 5% thị phần.
Giá cả: là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Sự tương tác
giữa người mua với người mua, người bán với người bán và người bán với người
mua hình thành giá cả thị trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động
do sự tương tác của cung và cầu trên thị trường của một loại hàng hoá, ở địa
điểm và thời điểm cụ thể.
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Đối với sản phẩm máy tính xách tay, chất lượng ngày càng được nâng lên
nhưng giá ngày càng “mềm” đi. Trước đây, giá cả là thế mạnh của các công ty
sản xuất, lắp ráp máy tính Việt Nam, các dòng máy tính mang thương hiệu Việt
như CMS mức giá từ 500 – 875 USD, thấp hơn 40% so với máy tính thương
hiệu ngoại cùng cấu hình, nhưng gần đây nhiều công ty nước ngoài tung ra thị
trường những sản phẩm có giá rẻ không kém, nên ưu thế này dần bị thu hẹp.
Năm 2007 vừa qua, các dòng máy tính “bình dân” có giá từ 700-800 USD được
tiêu thụ mạnh nhất, chiếm 40% số lượng máy bán ra. Máy tính ngày càng rẻ hơn
cũng đã khiến không ít người nghi ngờ về mặt chất lượng, công nghệ sử dụng.
Đại diện của Công ty Acer Việt Nam cho biết, linh kiện đã được tiêu chuẩn hoá,
số lượng sản phẩm sản xuất hàng loạt cùng với hệ thống phân phối tốt là nguyên
nhân khiến giá máy tính xách tay ngày càng mềm hơn. Ngoài ra, công nghệ vi xử
lý cũng tập trung hướng vào từng dòng sản phẩm, đối tượng khách hàng. Hiện
nay, trên thị trường còn xuất hiện những dòng máy tính siêu rẻ. Mục đích của
dòng máy này là phục vụ các em học sinh. Có những máy giá chỉ 380 USD như
dòng máy Asus EEEPC- 2GS có 4 màu rất đẹp: xanh lá cây, xanh da trời, hồng,
đen; màn hình 7 inch. Dòng máy siêu nhỏ gọn và rẻ này tuy mới vào thị trường
Việt Nam từ cuối năm 2007 nhưng nó cũng đã được giới trẻ ủng hộ.
Sự cạnh tranh: cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhân doanh nghiệp trong
hoạt động kinh doanh nhằm giành giật các nguồn lực hay thị trường tiêu thụ
nhằm thu lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh diễn ra liên tục và không
có đích cuối cùng. Cạnh tranh sẽ bình quân hoá các giá trị cá biệt để hình thành
giá cả thị trường. Vì vậy, cạnh tranh là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp
thương mại không ngừng cải tiến hoạt động kinh doanh để tồn tại và phát triển.
Từ đầu năm 2007 thị trường máy tính xách tay ngày càng cạnh tranh khốc liệt.
Các đại lý phân phối đang đứng trước sức ép cạnh tranh rất lớn, ăn thua nhau
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
từng “đô”. Các công ty chuyên phân phối máy tính để bàn và linh kiện giờ đã
nhận thấy tiềm năng của thị trường máy tính xách tay, giờ đồng loạt chuyển sang
phân phối thêm mặt hàng này. Kết quả là các nhà bán lẻ buộc phải xây dựng mức
lợi nhuận thấp nhất có thể, thậm chí có những model nhà phân phối phải chấp
nhận bán hòa hoặc lỗ để thu hút khách hàng. Nền kinh tế Việt Nam đang tăng
trưởng, đời sống người dân được nâng cao, nhu cầu tiếp cận với sản phẩm CNTT
đang trở thành thiết yếu. Ngoài các chương trình khuyến mãi của Hãng thì các
doanh nghiệp kinh doanh MTXT cũng tự mình phải giảm giá trực tiếp để kích
cầu. Các doanh nghiệp cũng liên tiếp đưa ra các chương trình khuyến mại khác
nhau nhằm thu hút khách hàng đồng thời có chế độ dịch vụ phục vụ khách hàng
tốt nhất để thu hút khách hàng mới và lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Điều mà các doanh nghiệp cần chú ý là các sản phẩm CNTT thay đổi rất nhanh
chóng, trong khi nhu cầu con người ngày càng được nâng cao. Vì vậy để cạnh
tranh được thì doanh nghiệp phải nắm bắt được xu hướng tiêu dùng, tìm kiếm
nguồn hàng tốt nhất đáp ứng nhanh nhất, chu đáo nhất cho khách hàng.
1.3/Chiến lược phát triển thị trường máy tính xách tay tại Việt Nam cho các
doanh nghiệp.
1.3.1/ Khái quát về chiến lược kinh doanh
 Khái niệm:
Chiến lược kinh doanh (CLKD) của doanh nghiệp thương mại là định hướng
hoạt động kinh doanh có mục tiêu trong một thời gian dài cùng với hệ thống
chính sách, biện pháp và cách thức phân bổ nguồn lực để thực hiện mục tiêu của
doanh nghiệp trong khoảng thời gian tương ứng.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thương mại bao gồm:
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Các mục tiêu và phương hướng đi tới đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển
vững chắc, liên tục trong một thời gian dài.
- Các chính sách, biện pháp, điều kiện cơ bản quan trọng để đảm bảo điều
kiện hoạt động kinh doanh là phân bổ các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các
mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp.
- Trình tự hành động và các điều kiện để thực hiện các mục tiêu đề ra.
 Sự cần thiết của CLKD:
Thứ nhất, môi trường kinh doanh hiện nay đã thay đổi cơ bản so với trước
đây, đòi hỏi phải đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp cả về nội dung và
phương thức: Khoa học nói chung và khoa học kinh tế nói riêng đã có bước phát
triển vượt bậc nhanh chóng, nhiều thành tựu mới ra đời; Kỹ thuật công nghệ có
vai trò ngày càng to lớn, tạo ra sức đột phá trong sự phát triển của tất cả các
ngành, các lĩnh vực, sự bùng nổ thông tin đa chiều, phát triển nhanh chóng; Cơ
hội và thách thức từ hội nhập kinh tế quốc dân đối với các doanh nghiệp càng
lớn.
Thứ hai, đối với các doanh nghiệp, để tồn tại, phát triển trong môi trường
cạnh tranh ngày càng gay gắt cả về mức độ và phạm vi đòi hỏi phải đổi mới tư
duy, phải tìm kiếm phương thức kinh doanh mới, phương thức mới đó là xây
dựng và thực hiện CLKD.
Thứ ba, trên thế giới tư tưởng quản trị kinh doanh theo chiến lược đã có từ lâu
và được khẳng định đó là quá trình phát triển tất yếu của quản trị doanh nghiệp.
Thứ tư, theo nghiên cứu cho thấy, các công ty vận dụng quản trị chiến lược
thường đạt kết quả tốt hơn trứơc đó và tốt hơn các doanh nghiệp cùng loại không
vận dụng quản trị chiến lược.
 Vai trò của CLKD:
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, loại trừ những
yếu tố may rủi ngẫu nhiên, sự tồn tại và thành công trong kinh doanh của doanh
nghiệp phụ thuộc trước hết vào tính đúng đắn của chiến lược đã vạch ra và thực
thi tốt các chiến lược đó.
Thứ nhất, có CLKD giúp doanh nghiệp thấy rõ mục đích và hướng đi của
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Từ đó doanh nghiệp thấy cần tổ chức
bộ máy kinh doanh theo hướng nào? Cần phải làm gì để gặt hái được thành công
trong kinh doanh và biết được khi nào doanh nghiệp đạt tới mục tiêu đã định.
Xác định đúng mục đích và hướng đi là yếu tố cơ bản quan trọng bảo đảm thành
công trong kinh doanh với chi phí về thời gian và nguồn lực nhỏ nhất. Nhận thức
đúng mục đích và hướng đi giúp nhà quản trị và nhân viên nắm vững những việc
cần phải làm, khuyến khích họ làm tốt phần việc của mình trong ngắn hạn, làm
cơ sở thực hiện tốt những mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai, trong điều kiện môi trường kinh doanh biến đổi nhanh chóng, tạo ra
muôn vàn cơ hội tìm kiếm lợi nhuận nhưng cũng đầy cạm bẫy rủi ro. Có chiến
lược sẽ giúp doanh nghiệp chủ động tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh khi
chúng vừa mới xuất hiện đồng thời bớt rủi ro trên thương trường. Quản trị kinh
doanh theo chiến lược buộc các nhà quản trị phải phân tích, dự báo các điều kiện
của môi trường kinh doanh trong tương lai gần cũng như xa, từ đó tập trung vào
những cơ hội tốt nhất đồng thời đề phòng được những rủi ro xấu nhất.
Thứ ba, nhờ vận dụng CLKD, các doanh nghiệp sẽ gắn liền các quyết định đề
ra với các điều kiện của môi trường, giúp cân đối một bên là tài nguyên, nguồn
lực và mục tiêu của doanh nghiệp với bên kia là cơ hội thị trường bảo đảm thực
hiện tốt mục tiêu đề ra. Các doanh nghiệp không vận dụng quản trị chiến lược
thưòng đưa ra các quyết định thụ động sau các diễn biến của thị trường. Nói cách
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
khác có CLKD các doanh nghiệp sẽ được chuẩn bị tốt hơn để chủ động đối phó
với những thay đổi của môi trường kinh doanh.
Thứ tư, trong môi trường cạnh tranh gay gắt, thông qua phân tích toàn diện
đầy đủ các yếu tố của môi trường vĩ mô, môi trường tác nghiệp giúp doanh
nghiệp xác định đối thủ cạnh tranh, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp tổng thể nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Tuy nhiên, CLKD không phải là phương thuốc chữa được bách bệnh mà cũng
có những mặt hạn chế:
- Mất nhiều thời gian và chi phí để xây dựng và thực hiện quản trị kinh
doanh theo chiến lược.
- Tính đúng đắn của CLKD phụ thuộc rất nhiều vào dự báo dài hạn về môi
trường kinh doanh, nếu những dự báo có sai sót sẽ hạn chế đến kết quả kinh
doanh.
- Sau khi hoặch định nếu không kịp thời thay đổi, chiến lược sẽ trở thành
cái “khung cứng nhắc” trói buộc doanh nghiệp. Cần phải nhớ rằng quản trị chiến
lược mang tính năng động theo sự thay đổi của môi trường.
- Nếu doanh nghiệp chỉ chú ý tới hoặch định mà không chú ý đến thực
hiện sẽ là sai lầm, bản chất của quản trị chiến lược là hoạt động, chỉ có thực hiện
mới đem lại thành công trong kinh doanh.
 Các phương pháp xây dựng CLKD:
Để có CLKD có cơ sở khoa học và có tính khả thi cao cần nắm được các
phương pháp xây dựng chiến lược kinh doanh, trình tự xây dựng CLKD của
doanh nghiệp, các phương án CLKD chủ yếu của doanh nghiệp.
Có 3 phương pháp xây dựng CLKD chủ yếu:
 Phương pháp xây dựng CLKD từ trên xuống
NguyÔn ThÞ Hµ - Th¬ng m¹i 46B

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét