Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam

Ông Năm Hên, chú Tư Đức, ông Năm Tự, ông Hai Cháy
là những người lam lũ, chân lấm tay bùn. Với mong muốn mang lại đời sống
yên ổn cho dân làng, họ đã sẵn sàng ra tay giết sấu, bẫy heo rừng mà không
nghĩ đến tính mạng của mình. Ông Năm Hên đã từng bắt sấu một mình ở
rừng U Minh Hạ, cha con chú Tư Đức chủ trì cuộc chiến đấu với con sấu lửa
trên sông Gành Hào. Ông Hai Cháy, ông Năm Tự và dân làng đã từng đối đầu
chạm trán với bầy heo rừng hung hăng [Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Sông Gành
Hào, Con heo khịt, tr.83-181]. Trong khi súng đạn của Tây cũng phải bất lực
trước những con sấu thần, sấu chúa thì không gì có thể sánh với trí thông
minh, sự gan dạ và lòng dũng cảm của con người. Dân làng Khánh Lâm gọi
ông Năm Hên là người kỳ tài, vì ông đi bắt sấu bằng chiếc xuồng ba lá,
trên đó chỉ có hũ rượu và bó nhang. Riêng ông thì khiêm tốn cho
rằng “tôi đây không có tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít”
[Hương rừng Cà Mau, tập 1, tr.88]. Nhờ vào tài trí, mưu mẹo, đặc biệt là sự
gan dạ, lòng dũng cảm của cha con chú Tư Đức và bà con dân làng nên họ đã
giết được con sấu lửa. Điều đó đã khiến cho ông Rốp - người đã
từng xem thường chú Tư, khinh rẻ người dân An Nam phải thán phục.
Quả là “thời thế tạo anh hùng”. Khi phải đối đầu với những khó khăn
thử thách, con người đã chứng tỏ bản lĩnh của mình. Hơn nữa, để duy trì sự
sống, con người đã tìm đủ mọi cách để tự vệ. Cuộc sống đã
dạy cho con người trí thông minh, sự gan dạ, và lòng dũng cảm. Đó là
một điều không thể phủ nhận. Sơn Nam đã xem những phẩm chất đáng quí ấy
như cái vốn có của người dân nơi này. Đối với thú dữ, họ đã nghĩ ra nhiều
mưu kế, nhiều “chiến thuật” để thu phục chúng. Cũng có lúc họ cúng vái, lập
bàn thờ… để cầu xin cuộc sống bình yên. Đối với thiên nhiên, họ đã sớm nắm
bắt được qui luật, thu thập được nhiều kinh nghiệm. Để rồi, bằng vốn sống
và những hiểu biết của mình, họ đã vận dụng những thuận lợi để
phục vụ cho mục đích sinh kế, lập nghiệp. Họ không quản ngại gian khó, và
5
dường như họ chưa bao giờ chùn bước. Đối với giống heo rừng hung hăng,
thứ heo sống bảy, tám năm “ nanh dài một tấc, mình mẩy nổi dấu chì, khi đổ
quạu là sôi bọt mồm… một đêm phá năm bảy công rẫy khoai mì”
thì dù có sợ hãi, lo lắng con người vẫn sáng suốt nghĩ cách đối phó. Không thể
đấu sức, họ dùng mưu.
Đọc truyện ngắn của Sơn Nam thời kì này chúng ta có dịp trở về với
hình ảnh của đất trời Nam bộ thời cha ông đi khai khẩn. Từ đó
chúng ta thấy được những phẩm chất tốt đẹp của con người ở mảnh đất
cực Nam tổ quốc, cần cù, nhẵn nại, đầy tình người, đầy sự mạo hiểm, đầy lòng
nhân hậu đối với mảnh đất mà họ đang khai hoang, và những nỗi nhọc nhằn
khốn khổ của họ, man mác như hương rừng U Minh, và sâu sắc như tâm hồn
bình dị của họ.
Nam Bộ ngày nay là mảnh đất kết tinh của biết bao mồ hôi, nước mắt
và máu xương của những người đi trước. Bên cạnh những người đã ngã xuống
vì bom đạn của chiến tranh là sự hy sinh thầm lặng của những người đi mở
mang bờ cõi. Họ là những chiến sĩ tiên phong trong việc đẩy hoang sơ lùi dần
vào quá khứ, biến rừng rậm hoang vu thành đồng ruộng phì nhiêu
cò bay thẳng cánh. Khó có thể nói hết công lao của những người đã từng
gắn bó và làm nên mảnh đất này. Sơn Nam đã làm cho người đọc sống lại
những phút giây hào hùng của dân tộc, khơi dậy trong lòng họ một tình yêu
quê hương đất nước, nhắc nhở họ ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Và đó
cũng là cách làm hữu hiệu để ông vượt qua sự kiểm duyệt của chính quyền Sài
Gòn.
2.1.2. Con người nghĩa khí, hào hiệp trong quan hệ cộng đồng
Bước vào truyện ngắn Sơn Nam là tiếp xúc với một mảnh đất đầy
những chuyện rừng, chuyện đời, chuyện săn bắn, và tình người trong thế giới
hoang sơ, kỳ bí, lạ lùng, thâm u của miền Cà Mau, của những con người di
6
dân Nam Bộ trong công cuộc khẩn hoang miền Nam, và tình cảm sâu đậm
giữa người và người, giữa người và thiên nhiên, giữa người và rừng tràm,
sông sâu, giữa người và thú rừng hoang dã, giữa người và những đau khổ sâu
sắc lẫn hạnh phúc nhẹ nhàng và tâm hồn bình dị của họ qua những câu chuyện
kể của ông, đã gây cho người đọc phải bồi hồi xúc động, ngậm ngùi.
Trọng nghĩa khinh tài là một nét đẹp trong văn hoá ứng xử của người
Nam Bộ từ xưa đến nay. Miền Tây Nam Bộ là vùng đất được khai phá sau
cùng. Rừng sâu, nước độc, rắn rết, hùm beo vây bủa, đe doạ mạng sống con
người. Trong cảnh ngộ ấy, ngoài tinh thần gan dạ, dũng cảm, con người đã
sống với nhau bằng cái nghĩa. Hội tụ về đây là những con người xa lạ, có khi
không cùng họ mạc xóm làng, không cùng quê hương xứ sở; sống giữa trời
đất bao la, hiểm nguy gian khổ nên họ luôn thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó,
đùm bọc, yêu thương quí trọng lẫn nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau trên tinh thần
“Tứ hải giai huynh đệ”. Họ giúp người vì cảm thương những ai đang rơi vào
hoàn cảnh bế tắc, khốn khó và xem như đó là nhiệm vụ của mình mà không hề
vụ lợi, suy tính thiệt hơn. Dường như họ thuộc nằm lòng lời dạy của thánh
hiền “Thi ân bất cầu báo”. Đối với họ, tình luôn đi đôi với nghĩa. Nghĩa là
tình nghĩa, đạo nghĩa thể hiện trong sự ứng xử giữa con người với nhau, con
người với thế giới xung quanh. Khí chỉ tâm thế sống của con người vì cái
nghĩa mà có dũng khí, khí phách. Nguồn gốc cao đẹp của khí chính là xuất
phát từ cái nghĩa, vì nghĩa mà hành động. Ðây là một nét đặc biệt nữa mà ca
dao Nam Bộ ghi lại được:
Dấn mình vô chốn chông gai,
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân.
Lao xao sóng bủa dưới lùm,
Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng.
Sự nghĩa khí, hào hiệp ở đây thể hiện trước hết đối với những con
người gần gũi xung quanh làng mạc, xóm giềng. Đối với xóm giềng, họ tỏ ra
7
gắn bó khắng khít, quí mến thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Dẫu đôi khi có chút
hơn thua hiềm khích, họ cũng chín bỏ làm mười. Thầy Năm Điền với thầy Hai
rắn [Cây huê xà, tr.187] vốn là hai kẻ thù địch. Họ đã từng cạnh tranh nhau
trong nghề nghiệp, nhưng đến khi thầy Năm Điền với con Lài chết vì toa
thuốc rắn, thầy Hai tỏ ra vô cùng xót xa. “Chờ cho thưa khách, thầy tới
cầm tay nạn nhân mà ngửi rồi nước mắt thầy bỗng tuôn xuống” [Hương rừng
Cà Mau, tập 1, tr.197] Phải chăng đó là giọt nước mắt của nhân tâm, của
nghĩa tình, của bao nhiêu điều ông muốn nói với người bạn đồng môn? Thầy
Hai Rắn từ bỏ nghề làm thuốc ngừa rắn đã từng cả đời gắn bó, là niềm kiêu
hãnh của thầy, là kế sinh nhai trước cái chết của cha con Lài. Tấm lòng của
thầy Hai Rắn chính là sự bao dung đối với những toan tính, đố kị, mánh khóe
của con người.
Cũng trên tinh thần tình làng nghĩa xóm, khi bà con ở rạch Xẻo Bần tự
sản xuất được xà bông đi bán, mỗi khi từ xa trở về, họ không quên mua tặng
cho Dượng Hai bác vật gói trà Kỳ Chưởng gọi là đền ơn “ khoa học” của
dượng. Tình nghĩa của con người ở đây là thứ tình cảm không biên giới. Nó
nảy sinh từ trong đấu tranh chống ngoại cảnh thù địch, chống áp bức bóc lột,
thể hiện sự chân chất, thật thà của người lao động. Cái tình ấy rất sâu đậm, nó
gắn liền với cái nghĩa mà chúng ta từng bắt gặp trong “Lục Vân Tiên ” của cụ
Nguyễn Đình Chiểu. Đó là sự tốt bụng của chú Tư Lập, ông bà Hai Tích trong
Một cuộc biển dâu, là sự giúp đỡ nhiệt tình của ông Tư Châu Xương với anh
Tư Bình Thủy trong Nhứt phá sơn lâm, của Lão Bích với Tư Hưng trong
Chuyện rừng tràm… và còn rất nhiều những con người sống bằng tình thâm
nghĩa cả khác.
Điểm cao quí nhất trong tác phẩm của Sơn Nam vẫn là tình thương
đồng loại, từ cái nghĩa xóm làng đến cái nghĩa đồng loại, người nông dân Nam
Bộ thoát ra khỏi quan niệm làng, hướng tấm lòng cưu mang đến với tất cả con
người trong hoạn nạn.
8
Một cuộc biển dâu là tác phẩm khá tiêu biểu của Sơn Nam trong việc
ngợi ca tình cảm tốt đẹp của con người trước những tai hoạ xảy ra trong cuộc
sống. Giữa mùa mưa lũ, trâu bò không có cỏ ăn, người chết không có đất chôn
thì chú Tư Lập, ông bà Hai Tích phải chứng kiến cảnh đau lòng của thằng
Kìm. Ba nó tắt thở giữa biển nước mênh mông của vùng ruộng sạ tỉnh Long
Xuyên. Trước thảm cảnh ấy, chú Tư Lập, ông bà Hai Tích đã hết lòng giúp
đỡ. Chẳng những lo “chôn cất” chu đáo cho cha nó mà ông bà Hai còn lập bàn
thờ cầu siêu cho “vong hồn người bạc mạng” [Hương rừng Cà Mau, tập 3,tr.
118]. Đó là những nghĩa cử cao đẹp. Đứng trước nỗi đau của người khác, họ
xem như của chính mình. Vì vậy, họ đã hết lòng giúp đỡ mà không hề tính
toán thiệt hơn. Mặc dù đang trên đường đi len trâu đồng xa, chú Tư đã không
ngần ngại đưa cho thằng Kìm chiếc nóp để nhờ ông Hai gói xác ba nó. Ông bà
Hai thì “lụm cụm” khiêng cái thớt trên của cối xay lúa để dằn xác người chết
xuống đáy nước. Điều quan trọng không chỉ là việc làm của họ mà qua tác
phẩm, người đọc có thể thấy được trong từng thái độ, cử chỉ, từng hành vi, lời
nói của họ đều đầy ắp nghĩa tình. Chú Tư Lập thì xông xáo, hớt hải khi thấy
tín hiệu cầu cứu của thằng Kìm. Ông bà Hai thì sốt sắng hỏi han, lo liệu. Sau
khi nghe thằng Kìm thuật lại hoàn cảnh của cha nó, ông Hai thở dài, gọi bà hai
nấu cơm thêm cho thằng Kìm cùng ăn. Thấy nó khóc, bà cũng rưng rưng nước
mắt rồi hết lời an ủi. Nhìn nó mệt lịm, ngả lên sàn mà ngủ, bà Hai thì thầm với
ông “tới mùa nước giựt, bề nào ông cũng ráng nhớ hốt xương, chôn cất kỹ
lưỡng dùm nó. Tôi khổ lắm” [Hương rừng Cà Mau, tập 3,tr.19 ]. Sơn Nam đã
khéo sắp đặt những tình tiết éo le của câu chuyện để qua đó tác giả đề cao vẻ
đẹp tinh thần của những người đi mở đất.
Rất nhiều nhân vật trong tác phẩm của Sơn Nam đã sống bằng tinh thần “Kiến
nghĩa bất vi vô dõng giã” mà cụ Nguyễn Đình Chiểu ngày trước đã nêu cao.
Thậm chí đến “phường khảo khấu lục lâm” cũng giàu tinh thần nghĩa hiệp. Họ
hiện lên trong truyện ngắn Sơn Nam như những tay anh hùng, giang hồ mã
9
thượng, có tài trí linh loạt. Đảng Cánh buồm đen tung hoành một dải từ Cà
Mau đến Hà Tiên khiến tàu đoan của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam mấy phen
thất điên bát đảo, nhưng tuyệt đối không xâm phạm tài sản của dân chài ven
biển. Đơn Hùng Tín chỉ “Ăn cướp của Tây tà, đem phân phát cho kẻ bần
cùng”. Có thể xem nghĩa cử của ông Tư Hiền trong Đảng Cánh buồm đen là
một điển hình. Nhân danh là một đảng cướp từng hùng cứ từ Mũi Cà Mau
đến địa phận Hà Tiên nhưng ông chỉ nhằm vào hai kẻ thù chính. Đó là “tàu
đoan của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam”, tuyệt đối không xâm phạm tài sản
của dân chài ven biển. Ông đã từng cứu con gái ông lão mò ngọc điệp ở hòn
Sơn Nhạn khi bị đảng cũ bắt. Ông cũng đã tuyên bố giải nghệ
sau khi đã giết lầm một lương dân. Hãy nghe lời ông tỏ bày với vị hôn
thê của mình: “Đây là lần đầu tiên trong đời mà anh đau đớn nhất.
Anh giết oan người ta. Ngọn roi này, anh xuống tay mạnh quá, bị ô
uế rồi. Tội nghiệp, chết không nhắm mắt mà ngón tay hắn còn chỉ về phía biển
khơi, nơi quê vợ con hắn. Thấy phận người mà nhớ tới phận mình, anh vội về
đây ” [Hương rừng Cà Mau, tập 2, tr.70 ].
Đối với Sơn Nam, họ là những người có nghĩa khí. Nghĩa khí ở đây
cũng chính là đạo nghĩa, là “điệu nghệ”, chữ mà ông hay dùng. Sống điệu
nghệ là sống vì nghĩa, dám hi sinh cho cái gì có ý nghĩa lớn lao. Có thể nói,
tinh thần “trọng nghĩa khinh tài” đã trở thành tính cách của con người Nam bộ
từ xưa đến nay. Họ xem như đó là một phương châm trong cuộc sống. Chính
vì lẽ đó mà ông Năm Hên, chú Tư Đức là những người có tài bắt
sấu, câu sấu nhưng họ không lấy đó làm kế sinh nhai. Đối với ông Năm
Hên, nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt ông “không màng thứ phú qưới
đó”[ Hương rừng Cà Mau, tập 1, tr.88]. Ông trở thành thợ bắt sấu chuyên
nghiệp ở Kiên Giang vì muốn trả thù cho anh mình. Hễ nghe ở đâu có sấu
hoành hành đe dọa con người là ông tìm đến. Hôm con dâu ông cai tổng Hy bị
sấu ăn thịt, có người đã ngã giá trên hai trăm đồng và sở hữu hai lượng vàng
10
trong bụng sấu mới chịu ra tay. Vài bữa sau, ông hỏi han kĩ lưỡng rồi xin phép
bắt con sấu đó không ăn một đồng xu nào. Ông bắt sấu không phải vì số vòng
vàng trong bụng nó như người ta nghĩ mà ông muốn giết sấu để giảm bớt tai
họa cho dân làng, để giải oan cho những vong hồn bị “hùm tha sấu bắt ở đầu
ghềnh cuối bãi”. Thấy việc cầm làm là làm, thấy người hoạn nạn là không
ngại hiểm nguy ra sức giúp đỡ chẳng chút tính toán thiệt hơn. Hình ảnh của
ông không khỏi gợi chúng ta liên tưởng đến ông Ngư, ông Tiều, ông quán
trong truyện Lục Vân tiên của Nguyễn Đình chiểu, như con người luôn ngời
sáng một tinh thần hành động vì nhân nghĩa.
Chú Tư Đức trong Sông Gành Hào cũng vậy. Sau khi biết ông Rốp định báo
với quan Tham biện chủ tỉnh xuất tiền thưởng công cho chú về việc đã giết
con sấu ở sông Gành Hào, chú cười rồi bảo “ vì đất nước chớ đâu phải vì
danh lợi. Sách có chữ “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc
anh hùng” [Hương rừng Cà Mau, tập 3, tr.201]. Ngoài ra, nét tính cách trọng
nghĩa khinh tài còn được Sơn Nam thể hiện rất rõ trong cách phản ứng của bà
con ở xóm rẫy Tân Bằng, ven rừng U Minh đối với cách “ăn to xài lớn” của
anh Giáo Trích và cô Tư Hạnh. Dân chúng vùng này vốn quý trọng tình nghĩa,
khi Giáo Trích xuất hiện, anh đã không tạo được sự đoàn kết mà còn đảo lộn
nhiều thứ. Vì thế, loại người vì tiền mà thay đổi ngay như cô Tư Hạnh cuối
cùng cũng đã bỏ anh đi [Ăn to xài lớn]. Trong truyện ngắn Tình bậu muốn
thôi, Sơn Nam chọn cách gián tiếp thể hiện nét tính cách này của con người
Nam Bộ. Trong truyện cách cư xử của cả người chồng và người vợ đều có chỗ
sai: anh chồng khi đã giàu có lại trở mặt đuổi vợ ra khỏi nhà., còn cô vợ khi
cưới chồng khác làm quan to thì lên mặt hỗn láo với người chồng cũ. Tuy
nhiên khi câu hát dân gian được cất lên thì đó là lời “nhắc nhở con người
nên ăn ở thủy chung, đừng ỷ thế giàu sang”, khinh khi nghèo khó.
Nhìn chung, họ là những người am hiểu tinh thần sách vở thánh hiền,
sống với tinh thần nhân văn cao cả. Điều đó không chỉ riêng có ở người Nam
11
bộ nhưng qua ý nghĩ và hành động của họ chúng ta thấy rõ hơn bản chất, khí
phách của người dân nơi này.
Tinh thần nghĩa khí, hào hiệp trong truyện của Sơn Nam còn được toát
lên trong mối quan hệ với các loài vật gắn bó với cuộc sống con người. Trong
truyện "Mùa len trâu", không gian tứ bề là nước, người nông dân, vượt đừng
dài thăm thẳm lội nước băng rừng để len trâu tìm kiếm thức ăn cho con vật
[Hương rừng Cà Mau, tập3, tr.39]. Cái nghĩa đối với con trâu của người nông
dân như là một hành động biết ơn đối với con vật xuất phát từ cái đạo đối với
nghề nông, như chú Tư nói: "Trâu giúp mình tạo ra hạt lúa, bù lại mình không
kiếm đủ cỏ cho nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân"[Hương rừng Cà Mau, tập
3, tr.40].
Tinh thần nghĩa khí hào hiệp còn thể hiện ở tấm lòng đạo nghĩa với
những con thú hoang dã. Cha con người nông dân Tư Đức trong cuộc chiến
với con sấu hung dữ ở sông Gành Hào chỉ giết một con vì " giết một con là đủ,
giết hết là mình có tội với trời đất" [Hương rừng Cà Mau, tập 3, tr.201], và xin
cho lập một cái miếu thờ cá sấu. Trong chuyện "Tháng chạp chim về", con
chim già nua trở về bên sân chim cũ "nó có nghĩa lắm bỏ sân chim không
đành"[Hương rừng Cà Mau, tập3, tr.208]. Ông Tư chứng kiến cái tình cao đẹp
của loài chim, ngạc nhiên vì cái tình vị tha, bao dung với con người.
Cách sống trọng nghĩa tình, sẵn sàng giúp đỡ cưu mang lẫn nhau không
phải đặc tính mà chỉ có dân Nam Bộ mới có, nhưng đây lại chính là nét nổi
bật của họ. Vốn mang trong mình dòng máu Việt, tinh thần tương thân tương
ái là cái gốc của con người Việt Nam từ xưa đến nay. Đến mảnh đất mới,
những cư dân tứ xứ cũng nhờ có tình nhân ái mà tồn tại và phát triển được.
Khi thể hiện mối quan hệ giữa người với người, nhà văn Sơn Nam đã
chứng minh cho ta thấy người Nam Bộ coi trọng nghĩa khí, xem tiền tài là
vật ngoài thân. Qua hành động của các nhân vật, qua cách họ cư xử với nhau
đã tự bộc lộ tinh thần trọng nghĩa khinh tài. Một trong những cơ sở xuất phát
12
của nét tính cách này nằm ở chỗ người Nam Bộ là những người mê tiểu
thuyết Tàu, mê truyện thơ Vân Tiên, dù rằng ít học nhưng họ là những người
hiểu biết. Cùng sống với nhau nơi mảnh đất mới với vô vàn những khó khăn
gian khổ, con người phải biết nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tồn tại.
“Người khẩn hoang thường là “chữ nghĩa không đầy lá me”, không rành cách
ngôn thánh hiền, tánh khí nóng nảy, bộc trực, lắm khi đến mức thô bạo, nhưng
sau khi giải thích thì vui vẻ, thông cảm. Ai hiểu lầm là nổi giận ngay”. Đó là
lời nhận xét của Sơn Nam trong công trình biên khảo Đồng bằng sông cửu
Long nét sinh hoạt xưa. Ở nơi này, người mạnh không phải là người ức hiếp
kẻ yếu mà người mạnh chính là những người nâng đỡ, che chở cho kẻ yếu.
Trong cách cư xử của họ đối với những người lầm lỗi cũng rất nghĩa khí. Họ
thường chọn cách bỏ qua để được sống yên ổn. Đọc truyện Sơn Nam, người
đọc dễ dàng nhận ra tính trọng nghĩa khinh tài của dân miệt vườn sông
nước. Trọng nghĩa tình cũng là một biểu hiện của tinh thần nhân ái, khi gắn
bó trực tiếp với nét tính cách khinh tài, xem tiền tài là vật ngoài thân nó đã trở
thành một phẩm chất đặc trưng của Nam Bộ từ xưa đến nay. Trọng nghĩa
khinh tài được xem là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người dân Nam
Bộ.
Truyện ngắn Sơn Nam ngập tràn những cách ứng xử đậm đà tình nghĩa
vì thế nhiều ý kiến đã đồng tình với nhau khi cho “rừng của Sơn Nam
có hương thơm” là vậy. Thứ hương thơm quý giá của tình người vùng đồng
bằng sông nước Cửu Long. Tình nghĩa vốn là thứ giá trị quý báu của dân tộc
ta từ bao đời nay, nó đi theo người khai hoang đến vùng đất mới, gặp phải
điều kiện mới tình nghĩa lại có dịp biểu hiện đa dạng và phong phú hơn.
2.1.3. Con người gắn bó mật thiết với thiên nhiên
13
Đọc truyện ngắn Sơn Nam, người đọc luôn thấy hiện lên hình tượng
con người gắn bó với ruộng đồng, rừng núi quê hương bằng một tình yêu
mãnh liệt đến xao xuyến. Con người Nam Bộ luôn mở lòng cảm nhận cảnh
sắc thi vị, hấp dẫn của thiên nhiên. Trong câu chuyện "Hòn Cổ Tron", nhân
vật ông Từ Thông với cuộc sống hoang dã, ban sơ "tóc khi thả dài xuống khỏi
lưng quần, khi thì bới thành búi to sau ót gài lại bằng cọng gai kim quýt"
[Hương rừng Cà Mau, tập 2, tr.227]. Trong cuộc sống hoang sơ ấy, nhân vật
hiện lên với tâm thế hòa hợp với thiên nhiên, tận hưởng mở lòng với thiên
nhiên, xem thiên nhiên với thế giới riêng của mình. "Khi trời nực thì có những
khe suối trong veo đón mời. Ông cứ ung dung mà uống, mà tắm một cách tự
nhiên, vô tình khuấy rối giấc mơ của đàn bướm trắng đang xao động bay lên
chập chờn như muốn rời nhánh mai, lơ thơ cúi nghiêng mình chấm mi nước…
hoặc có khi ông ngồi trên vồ cẩm thạch chậm rãi ăn buổi chiều, thỉnh thoảng
rứt từng miếng khoai sảy xuống nước. Loài cá nhỏ bu lại ngẩn ngơ"[Hương
rừng Cà Mau, tập 2, tr.228].
Trong nhiều truyện ngắn Sơn Nam, người đọc thật sự bị cuốn hút khi
lần bước trước thiên nhiên núi rừng kỳ vĩ, ẩn chứa nhiều bí mật. Nhưng có khi
nó hiện ra thật hiền hòa: “thầy đội trố mắt hồi lâu… Đôi ba trăm con rùa
đủ cỡ, đủ loại, đang cỡi đè lên nhau, chen lấn nghe lộp cộp. Con thì
ngã ngửa, khoe cái yếm vàng lườm, bốn cẳng ngoe nguẩy bơi trong
không khí. Con khác cố gắng quào vào vách hồ bằng sậy… Loại rùa nắp thì e
thẹn, khép cái yếm lại, giấu kín đầu cổ vào trong mai, giống như món
đồ ngon cất kỹ trong cái hộp bằng xương” [Biển cỏ Miền Tây, tr.15].
Sự gắn bó mật thiết với thiên nhiên còn là cách để con người hướng đến
am hiểu và chinh phục tự nhiên còn đầy hoang dã và thù nghịch. Gắn bó mật
thiết với thiên nhiên, con người đã tận dụng sự giàu có của thiên nhiên để đem
lại nguồn lợi to tát cho cuộc sống. Như trong sách Gia Định Xưa, sự giàu có
của vùng đất này được ông miêu tả thật thi vị : « Mùa lụt, cá nước ngọt trôi
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét