DANH MỤC CÁC
BẢ
NG
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loại cỏ trên vùng đất thấp
vào
45 ngày
cắt.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30
ngày.
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/
năm)
Bảng 1.4:
Những
dạng sống chính
của
thực
vật
đồng
cỏ
vùng
núi
Bắc Việt
Nam.
Bảng 1.5:Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ
chính.
Bảng 1.6: Giá trị dinh dưỡng của Ngô trong các giai đoạn khác
nhau.
Bảng
4.1: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ tự
nhiên.
Bảng
4.2: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ tự
nhiên.
Bảng
4.3: Năng suất các thảm cỏ trong đồng cỏ tự
nhiên.
Bảng 4.4: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ dưới
rừng.
Bảng 4.5: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ dưới
rừng.
Bảng 4.6: Năng suất các thảm cỏ dưới
rừng.
Bảng 4.7: Thành phần loài trong các thảm cỏ soi bãi hoang
hóa.
Bảng 4.8: Những dạng sống chính của thực vật trong các soi bãi hoang
hóa.
Bảng 4.9: Năng suất các thảm cỏ trong soi bãi hoang
hóa.
Bảng 4.10: Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn
nuôi.
Bảng 4.11: Một số chỉ tiêu của các cây cỏ trồng tại xã Hà
Hiệu.
Bảng 4.12: Giá trị dinh dưỡng của các loài cỏ trồng dùng làm thức ăn cho gia
súc.
MỤC
LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI
LI
Ệ
U
1.1. Tình hình nghiên cứu về
cây
thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam.
4
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
9
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng
21
1.4. Nhận xét chung
26
Chương 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN
C
Ứ
U
2.1. Vị trí địa lý
28
2.2. Địa hình, địa mạo
28
2.3. Khí hậu
29
2.4. Thủy văn
29
2.5. Các nguồn tài nguyên
30
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường.
32
Chương 3: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
C
Ứ
U
3.1. Đối tượng nghiên cứu
33
3.2. Phương pháp nghiên cứu
33
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LU
ẬN
4.1. Thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên
cứu 42
4.2. Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn
nuôi 87
4.3. Các loài cây trồng có giá trị chăn
nuôi 90
4.4. Tình hình sử dụng hiện nay, khả năng và xu hướng phát
triển. 93
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ
N
GH
Ị
1. Kết
luận 97
2. Đề
nghị 98
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC
GI
Ả
99
TÀI LIỆU THAM
KH
Ả
O
100
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
MỞ
ĐẦU
Đồng cỏ là cơ sở quan trọng nhất của nghề chăn nuôi gia súc đặc biệt là
trâu
bò, càng quan trọng khi nền công nghiệp chăn nuôi ngày càng phát triển trên
đà
thâm canh tăng năng xuất .Cỏ không những là nguồn thức ăn gia súc có chất
lượng,
rẻ tiền và phù hợp với điều kiện nhiều nước mà cỏ còn có những tác dụng khác
như
bảo vệ và cải tạo đất trồng dưới dạng này hay dạng khác [14]. Đồng cỏ là kho
dự
trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hoá năng lượng chứa trong
đồng
cỏ thành thức ăn của con người. Con người đã từ lâu biết khai thác đồng cỏ,
nhưng
lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhưng nhu cầu phát triển chăn nuôi
ngày
một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không thể đáp ứng được. Do đó
đòi
hỏi loài người phải đầu tư trí tuệ cho việc khai thác đồng cỏ. Các nhà khoa học
đã
tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện từ những đặc điểm sinh thái, sinh vật
học
đến các phương thức cải tạo, sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm tối đa trên đơn
vị
diện tích đồng cỏ trồng cũng như tự nhiên
[10].
Tuy nhiên, đến nay quan niệm về đồng cỏ là vấn đề còn đang tranh cãi.
Nhiều
nhà nghiên cứu đã đưa ra những đặc điểm cần có của loại hình đồng cỏ hoặc
nhóm
đặc điểm và cũng đã đưa ra hàng loạt định nghĩa về đồng cỏ. Theo
A.O.Felipe
(1965), những vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như miền đồi núi, bao
phủ
bởi cỏ địa phương được sử dụng cho chăn thả quản canh được gọi là bãi cỏ
tự
nhiên. Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên để thay thế bãi cỏ tự nhiên
bằng
cách trồng những loài cỏ có năng xuất và giá trị dinh dưỡng cao hơn [44]. Đa số
các
tác giả cho rằng đồng cỏ (Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên
tục,
nơi có lượng mưa dao động từ 250 – 750mm ở vùng ôn đới và tới 1200mm ở
vùng
nhiệt đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh trưởng
trong
mùa khô… Ở Việt Nam, theo Trịnh Văn Thịnh (1974), cũng có những đề nghị
khác
nhau: Danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng cỏ (vĩnh viễn hay tạm
thời)
còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật (có người đề nghị là chăn dắt)
chủ
yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi chăn [36] Theo Hoàng Chung (2006):
Đồng
cỏ là các sinh địa quần lạc, thảm thực vật của nó được đặc trưng bởi các quần xã
cỏ
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
với độ khép tán lớn hay nhỏ và chủ yếu là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ
ẩm
sinh, có sự ngừng sinh trưởng vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị
sự
giảm sút rõ rệt, đất đa dạng về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối
[11].
Việt Nam là nước “nhiệt đới gió mùa ẩm” [21], thảm thực vật về cơ bản
thuộc
“rừng mưa nhiệt đới” [45], không có đồng cỏ rộng như các nước vùng ôn đới,
hay
Châu Phi nhiệt đới [20]. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác ở khắp nơi, nhưng
tập
trung nhiều nhất vẫn là trên các đồi núi và các cao nguyên của trung du và miền
núi
(chiếm tới 10 triệu ha). Những khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích rộng
lớn
không có nhiều lắm, đại diện là các đồng cỏ thuộc Mộc Châu và Mai Sơn (tỉnh
Sơn
La), Lai Châu, đồng cỏ Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn) và một số đồng cỏ thuộc
vùng
Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm
ha.
Các thảm cỏ tự nhiên thường xuất hiện trên đất xấu, cây quán mộc nhiều,
những
khu vực này dùng từ “bãi chăn” có lẽ chính xác hơn [24]. Theo Hoàng
Chung
(2004) thì đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, do khai phá
rừng
mà thành [10], tuỳ theo mức độ bị tác động hàng ngày của con người và gia súc
mà
nó biểu hiện ra ở các trạng thái khác
nhau…
Đối với gia súc nhai lại thì thức ăn xanh đóng một vai trò hết sức quan trọng
vì
trong khẩu phần ăn hàng ngày của chúng có thể chiếm từ 60-100% [22]. Đáp
ứng
nhu cầu thức ăn cho gia súc, một trong những vấn đề cơ bản phải giải quyết
khi
muốn phát triển chăn nuôi là phát triển đồng cỏ, biện pháp hợp lý và kinh tế
nhất
mà nhiều nước, kể cả các nước tiên tiến đang áp dụng [14]. Trên thực tế hiện
nay
nguồn thức ăn xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu
hẹp
lại nhường chỗ cho cây trồng khác. Bên cạnh đó do chăn thả một cách bừa
bãi
không có kỹ thuật đã làm cho một số bãi chăn trở thành đất trống, đồi trọc,
không
còn khả năng khai thác dẫn đến thiếu thức ăn cho đàn gia súc, đặc biệt là về
mùa
đông [34]. Để phục vụ cho sự phát triển chăn nuôi, nhiều địa phương ngoài việc
biết
khai thác các loài cây, cỏ trong các loại hình tự nhiên khác nhau thì nhiều cây
trồng
cũng được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Cho đến nay đã có nhiều công
trình
nghiên cứu về thành phần cây thức ăn gia súc ở vùng nhiệt đới như: Lê Sinh
Tặng,
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
Nguyễn Chính (1959), Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tặng (1964), Lê Sinh
Tặng
(1969), Trịnh Văn Thịnh và các tác giả (1974), Điền Văn Hưng (1975),
Nguyễn
Đăng Khôi (1978, 1979, 1981), Võ Huy Giảng (1983), Dương Thành Liên
(1981),
Bùi Xuân An, Ngô Văn Mậu (1981), bước đầu đã nêu lên được tập đoàn cây
thức
ăn gia súc. Một số tác giả có đề cập đến vấn đề cải tạo đồng cỏ tự nhiên, sử
dụng
hợp lý hơn hay tạo đồng cỏ trồng, nhập nội một số loài mới, phân tích thành
phần
dinh dưỡng của một số loài cỏ ở nước ta như : Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976),
Hoàng
Kim Nhuệ (1979), Võ Văn Trị (1983), …
[10].
Hà Hiệu là xã miền núi của huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Mục tiêu phát triển
kinh
tế – xã hội của xã năm 2007 là phát triển đàn gia súc lên 2.299 con (trâu: 864 con,
bò:
1435 con) [4]. Với diện tích không lớn (4006,66 ha), đất nông nghiệp ít và đã ở
mức
độ khai thác cao, đất rừng cũng đang bị thoái hoá. Để có thể nâng cao đời sống
và
đảm bảo an toàn về môi trường sinh thái cần có sự chuyển đổi phương hướng
sản
xuất, đặc biệt là với chăn nuôi đại gia súc. Với mục đích xác lập đàn gia súc ổn
định
lâu dài cho chiến lược phát triển kinh tế miền núi và các phương án sử dụng hợp
lý
loại hình đồng cỏ và cây cỏ tự nhiên, cỏ và cây trồng khác ở xã Hà Hiệu huyện Ba
Bể
tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã xây dựng đề tài “Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức
ă
n
gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn”. Đề tài nhằm đánh
giá
thực trạng các loài cây cỏ được dùng làm thức ăn gia súc ở xã Hà Hiệu huyện Ba
Bể
tỉnh Bắc Kạn và mức độ sử dụng hiện tại của người dân địa phương với các loài
này.
Từ đó có thể rút ra kết luận khoa học nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản, cần
thiết
cho việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên tại địa phương, đem lại hiệu quả kinh
tế
cao mà không gây ảnh hưởng gì đến môi trường
sống.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
Chương
1
TỔNG QUAN TÀI
L
I
Ệ
U
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc
trên
thế giới và ở Việt
N
a
m
.
Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà thảo,
cây
đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng là thức ăn cho gia
súc.
Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác nhau như
bảo
vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ dại
[1].
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh
dưỡng,
như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có khả năng
sử
dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ không những rất
cần
thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ
lệ
đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ
đó
trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2]. Cỏ còn là loại cây thức ăn dễ sản
xuất,
có năng suất cao, tương đối ổn định và là nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm
giảm
giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là
thường
chỉ cần gieo trồng một lần mà sử dụng được nhiều năm. Ví dụ: Giá thành cho
1kg
cỏ Mộc Châu và cỏ lông Para trong 3 năm sử dụng là: 0.037 và 0.035 đồng
[14].
Họ Hoà thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ
cao
trong số thực vật trên đồng cỏ, có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là
lượng
hyđratcacbon và đặc biệt là các chất dinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi
thu
hoạch. Các cây họ Đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn gia
súc
nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng Protein
và
khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ
xung.
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp
được
16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1 đơn vị thức ăn
[36].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu hoạch
dưới
dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau
[46]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu
hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi thu
hoạch
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
ít bị ảnh hưởng
tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh
cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt
đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm bảo
lấy
được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ
dưới.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân
tố
sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon miệng
cao,
nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu gia súc về
các
mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được trồng kết hợp;
có
khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu cắt phải chịu được
sự
cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải có năng suất cao để
đảm
bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng;
…
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế
gi
ớ
i
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề
thức
ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin, … Chăn nuôi
là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở vùng Đông Nam
Á,
nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực
này.
- Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự
nhiên,
21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp để
giải
quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây Đậu)
[27].
- Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản
phẩm
trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu tiêu
dùng.
Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người nông
dân
bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đặc biệt là
gia
súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt giống cỏ để
trồng.
- Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực
phía
Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo,
Brachiaria,
Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn sản xuất 20,5
tấn
hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước
[31].
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
- Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các trang
trại
nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum atratum, …
đều
phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra, các giống cỏ trên còn
được
trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất trống đồi núi trọc, trồng dưới tán
cây
ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1 tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada,
1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư phát
triển
cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống cỏ Hoà
thảo
và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong sản xuất. Hằng
năm
sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong trào trồng cây thức ăn
xanh
để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực
thúc
đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát
triển.
* Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia súc trên thế
giới:
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống cỏ
tốt
từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề năng
suất,
chất lượng
cỏ.
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria
decumbens,
Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum khoảng từ
15-20,
18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng
1.1).
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp
vào
45 ngày
cắt.
Tên khoa
học
Tên Việt
Nam
Năng suất
(tấn/ha)
Prôtêin
(%)
Brachiaria
mutica
Cỏ lông
Para
9 -
15
6 –
10
Digitaria
decumbens Pangola
15 –
20
7 –
11
Paspalum
atratum
Cỏ
đắng
18 –
25
6 –
7
Paspalum
plicatulum
6 –
10
5 -
6
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000)
[39].
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum
plicatulum
là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy,
hai
giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái
Lan.
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái Lan)
cỏ
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái
Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x 50cm và
được
bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha tương đương 18
tấn
phân bón /1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở lứa đầu (70 ngày sau
trồng)
và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày [40]. Sản lượng này được thể hiện
ở
bảng
1.2.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30
ngày
Thời gian
cắt
Năng suất VCK
(tấn/ha)
11/8/2000 8,9
11/9/2000 7,1
11/10/2000 6,9
11/11/2000 6,8
11/12/2000 4,6
11/01/2001 2,6
11/02/2001 4,1
11/03/2001 4,3
11/04/2001 5,8
11/05/2001 3,7
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001)
[40].
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [42], giống Brachiaria decumbens
có
thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí nghiệm không bón
đạm
nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong điều kiện bón lân và
đạm
thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất chất khô đạt 36.700 kg/ha,
kết
quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria decumbens), Para
(Brachiaria
mutica) và Ghinê (Panicum maximum) (Barnard, 1969)
[41].
Tại Purertorico, Vieente - Chandler Silva và Figarella (1959) [49] thông
báo
năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg VCK/ha với
mức
bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Middleton và
Micosker,
(1975) [47] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền Nam Johnstone,
vùng
Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni đã sản xuất được 60.000
kg
VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg đạm/ha. Tại Samford, Queensland năng
suất
hàng năm của giống Paspalum rinatatum là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970)
[43].
Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của Riveros
và
Wilson (1970) [48] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng suất đạt từ
23.500-
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái
Nguyên
h tt p :/ / w w w .lrc - tnu . e d u.vn
28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước
và
cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan mầu
mỡ…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt
N
am
Ở Việt Nam, trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp
tác
quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức
ăn
hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin,
Inđônêsia,
Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho chăn nuôi. Một
số
giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả tốt và ứng dụng vào sản xuất ở một
số
vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số
giống
sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở
các
vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản
xuất.
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng
chưa
nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung vào
nghiên
cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một số vùng như: Lê
Hòa
Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới nhập nội ở một số
vùng
và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như trình bày ở bảng 1.1
[6].
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/
năm)
Tt
Tên
giố
ng
Long
M
ỹ
Sơn
Th
à
nh
Ba
Vì
Thụy
P
h
ươ
ng
Xa
nh
VCK Xa
nh
VCK Xa
nh
VC
K
Xa
nh
VCK
1
Panicum maximum
Hamil
56.91 9.73 92.9 17.6 86.3 16.5 90.5 17.3
2
Panicum maximum
Liconi
40.57 8.11 - - 99.96 18.9 97.5 17.5
3 Panicum
maximum
Trichoglumen
40.89 8.21 62.4 12.6 44 10.1 68.2 15.7
4
Panicum maximum
Makueni
59.96 11.92 77.1 15.1 60.8 12.4 108 19.4
5
Pennisetum King
grass
119 19.02 - - 170.1 22.3 207 23.6
6
Pennisetum
purpureum
99.73 16.95 176 22.9 169.5 20.4 198 21.8
7
Setaria
splendida
28.13 5.56 - - 75.1 14.1 80.4 12.6
8
Brachiaria
mutica
28.42 7.61 68.9 12.7 42.6 10.2 86.6 15.9
9
Brachiaria
decumbens
44.16 8.77 72.6 13.7 56.7 11.2 73.8 11.8
Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV,
1992.
Phan Thị Phần và CTV (1998) [25]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn
Đĩnh
(2001) [30] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và miền Bắc
cho
kết
quả:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét