Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Phân tích và chứng minh tính “hạn chế”, “phái sinh” trong quyền năng chủ thể Luật quốc tế

A. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ:
Mỗi hệ thống pháp luật đều có những chủ thể nhất định của nó, đối với Luật quốc
tế, số lượng cũng như quyền năng của từng loại chủ thể bị chi phối bởi phạm vi các
quan hệ được Luật quốc tế điều chỉnh và trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc
vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển. Trước tình hình đó,
trong Luật quốc tế có đặt ra vấn đề tồn tại nhiều loại chủ thể khác nhau bên cạnh chủ
thể truyền thống là các quốc gia, đặc biệt là vấn đề về quyền năng chủ thể của Luật
quốc tế.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề, nên em đã chọn đề tài: “Phân tích và
chứng minh tính “hạn chế”, “phái sinh” trong quyền năng chủ thể Luật quốc tế của tổ
chức quốc tế liên chính phủ, qua đó thấy được sự khác biệt với quyền năng chủ thể
Luật quốc tế của quốc gia.”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC
TẾ:
1. GIẢI THÍCH MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
1.1. Khái niệm chủ thể Luật quốc tế:
“Chủ thể của Luật quốc tế là thực thể đang tham gia vào quan hệ pháp luật quốc
tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền, nghĩa vụ quốc tế và có khả năng gánh vác những
trách nhiệm pháp lý quốc tế do chính những hành vi của chủ thể gây ra.”
(1)
1.2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ:
“Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết chủ yếu các quốc gia độc lập
có chủ quyền, được thành lập và hoạt động trên cơ sở điều ước quốc tế, phù hợp với
Luật quốc tế hiện đại, có quyền năng chủ thể riêng biệt và một hệ thống cơ cấu tổ chức
phù hợp để thực hiện các quyền năng đó theo đúng mục đích và tôn chỉ của tổ chức.”
(2)

1.3. Quốc gia:
“Quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế. Theo Công ước
Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia được thông qua tại Hội
nghị quốc tế các nước Châu Mỹ ngày 26/12/1933, thì quốc gia được cấu thành bởi các
1
yếu tố sau: lãnh thổ xác định; dân cư cư trú thường xuyên, chính phủ và khả năng tham
gia quan hệ quốc tế”
(3)
.
2. QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ:
“Quyền năng chủ thể Luật quốc tế là những phương diện thể hiện khả năng pháp
lý đặc trưng của những thực thể pháp lý được hưởng những quyền và gánh vác những
nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ quốc tế theo quy định của Luật quốc tế.”
(4)
Quyền năng chủ thể bao gồm hai phương diện và chỉ khi có đầy đủ hai phương diện
này thì mới được coi là chủ thể của Luật quốc tế.
- Năng lực pháp luật quốc tế là khả năng chủ thể của Luật quốc tế được mang
những quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, khả năng này được ghi nhận trong các quy
phạm pháp luật quốc tế.
- Năng lực hành vi quốc tế là khả năng chủ thể được thừa nhận trong Luật quốc tế
bằng những hành vi pháp lý độc lập của mình, tự tạo ra cho bản thân quyền năng chủ
thể và có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do các hành vi của mình gây
ra.
2.1. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ:
Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ là khả năng
tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế của tổ chức với tư cách chủ thể độc lập.
Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ là quyền năng
mamg tính chất phái sinh và hạn chế. Bởi lẽ, quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ
chức quốc tế liên chính phủ không xuất phát từ thuộc tính tự nhiên vốn có của tổ chức
mà quyền năng này do các thành viên của tổ chức thỏa thuận trao cho. Số lượng quyền
và nghĩa vụ của mỗi tổ chức quốc tế liên chính phủ tùy thuộc vào quyết định của các
thành viên. Do đó, mỗi tổ chức quốc tế liên chính phủ có các quyền và nghĩa vụ riêng
biệt và nó được ghi nhận trong điều lệ của tổ chức quốc tế. Qua đó, ta thấy quyền năng
chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính có một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Mang tính độc lập khi tham gia quan hệ với các chủ thể khác, thể hiện trong
quan hệ với các quốc gia thành viên và trong quan hệ với các quốc gia khác.
2
+ Mang đặc điểm phái sinh, do các quốc gia thành viên thỏa thuận, trao cho. Vì
vậy mà mỗi tổ chức quốc tế có quyền và nghĩa vụ khác nhau.
+ Mang tính hạn chế là chỉ được thực hiện trong phạm vi mà các thành viên trao
cho, bị giới hạn bởi các điều ước quốc tế.
Tuy nhiên, tổ chức quốc tế liên chính phủ có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau
đây:
+ Quyền tham gia vào quá trình xây dựng các nguyên tắc và quy phạm của Luật
quốc tế;
+ Quyền nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận quan sát viên
thường trực của các quốc gia chưa là phải là thành viên và cử đại diện của mình đến
các quốc gia này;
+ Quyền được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao;
+ Quyền được trao đổi đại diện với các tổ chức liên chính phủ khác;
+ Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp
quốc.
+ Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên
của tổ chức và giữa các quốc gia thành viên với tổ chức quốc tế đó;
+ Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia kí
kết với các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khac.
Tương ứng với các quyền là các nghĩa vụ mà tổ chức quốc tế liên chính phủ phải
thực hiện như:
+ Nghĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế;
+ Tôn trọng các quyền của các chủ thể khác của Luật quốc tế, không vi phạm chủ
quyền và can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia;
+ Chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế về các hành vi của mình;
+ Tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế ký với các chủ thể khác của Luật
quốc tế.
2.2. Quyền năng chủ thể Luật quốc tế của quốc gia:
3
Quyền năng chủ thể Luật quốc tế của quốc gia là tổng thể những quyền và nghĩa
vụ mà quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. “Quốc gia là chủ
thể duy nhất của Luật quốc tế có quyền năng đầy đủ khi tham gia quan hệ quốc tế.
Quyền năng này được hình thành dựa trên chủ quyền - thuộc tính tự nhiên vốn có của
quốc gia. Khi tham gia quan hệ quốc tế, quốc gia là chủ thể tự xác định phạm vi quyền
và nghĩa vụ cho chính mình được ghi nhận trong các điều ước quốc tế mà quốc gia ký
kết hoặc tham gia hay tồn tại dưới dạng tập quán quốc tế.”
(5)
. Với tư cách là chủ thể
cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế, quốc gia có các quyền cơ bản sau:
+ Quyền được tôn trọng độc lập, chủ quyền;
+ Quyền được bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi;
+ Quyền bất khả xâm phạm về biên giới, lãnh thổ;
+ Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể;
+ Quyền được phát triển và tồn tại trong hòa bình và độc lập;
+ Quyền được tham gia xây dựng các nguyên tắc, quy phạm của Luật Quốc tế;
+ Quyền được tự do quan hệ và hợp tác với các chủ thể khác;
+ Quyền được trở thành hội viên của tổ chức quốc tế phổ cập;
+ Quyền được tham gia vào các hội nghị quốc tế liên quan đến lợi ích của mình;
Bên cạnh việc hưởng những quyền lợi trên, quốc gia cũng phải gánh vác những
nghĩa vụ tương ứng như:
+ Nghĩa vụ tôn trọng độc lập, chủ quyền của các quốc gia khác;
+ Nghĩa vụ tôn trọng sự bất khả xâm phạm lãnh thổ của các quốc gia khác;
+ Nghĩa vụ không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế;
+ Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác;
+ Nghĩa vụ tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế;
+ Nghĩa vụ tôn trọng những quy phạm mang tính chất mệnh lệnh và những cam
kết quốc tế;
+ Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế;
+ Giải quyết tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình;…
Tùy thuộc vào ý chí của các quốc gia, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của quốc gia
được thực hiện một cách độc lập hoặc hợp tác với các quốc gia khác. Trong thực tiễn
quan hệ quốc tế, quốc gia có thể tự hạn chế một số quyền và nghĩa vụ của mình trong
những phạm vi và lĩnh vực nhất định với điều kiện sự tự hạn chế này phù hợp với các
quy định của Luật quốc tế.
4
Ví dụ: “Trước năm 2002, Thụy sĩ là quốc gia tuyên bố theo đuổi chế độ trung lập .
Với việc theo đuổi chế độ này, Thụy sĩ đã hạn chế một số quyền của mình trong quan hệ
quốc tế theo đuổi mục đích quân sự, quyền tham gia các liên minh quân sự,…Hiện nay,
Thụy sĩ đã từ bỏ chế độ này và trở thành thành viên của Liên hợp quốc tháng
9/2002.”
(6)

Bên cạnh đó, cũng có trường hợp các quốc gia có thể gánh vác thêm những quyền
và nghĩa vụ bổ sung nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
Ví dụ: “trường hợp các quốc gia là Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên
hợp quốc (Anh, Pháp, Nga, Hoa Kỳ và trung Quốc). Các quốc gia này có vai trò quan
trọng trong các hoạt động nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế và do đó được
hưởng quyền phủ quyết (quyền vecto).”
(7)
Tuy nhiên, những việc làm nêu trên không hàm ý quốc gia bị hạn chế hoặc mở
rộng hơn chủ quyền trái với ý chí quốc gia.
II. PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH TÍNH “HẠN CHẾ”, “PHÁI
SINH” TRONG QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ CỦA TỔ
CHỨC QUỐC TẾ LIÊN CHÍNH PHỦ:
1. PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH TÍNH “HẠN CHẾ” TRONG QUYỀN
NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ CỦA TỔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN CHÍNH
PHỦ:
Tính hạn chế trong quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính
phủ được thể hiện là trong khi quốc gia có thể tự quyết định tham gia vào bất cứ quan
hệ nào trên cơ sở chủ quyền thì tổ chức quốc tế liên chính phủ chỉ có thể tham gia vào
các hoạt động thuộc những lĩnh vực mà thành viên của tổ chức đó trao cho.
1.1 Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế:
Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế xuất phát từ quyền năng
chủ thể của các tổ chức quốc tế và thường được ghi nhận trong Hiến chướng và các
văn bản pháp lý khác của tổ chức quốc tế. Tổ chức quốc tế có thể ký kết các điều ước
quốc tế với các quốc gia, kể cả quốc gia thành viên như các điều ước quốc tế về thuê
trụ sở của tổ chức, các điều ước quốc tế liên quan đến khoản vay tín dụng mà các tổ
5
chức tài chính quốc tế dành cho các quốc gia…Tổ chức quốc tế cũng có thể ký kết các
điều ước quốc tế với các tổ chức quốc tế khác hiệp định chuyên môn được ký kết giữa
Liên hợp quốc với Tổ chức lao động quốc tế, với tổ chức hàng không dân dụng quốc
tế…
Tuy nhiên, do tính chất quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế nên
thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế của chủ thể này không giống như thẩm quyền của
các quốc gia. Vì vậy, có những loại điều ước quốc tế quy định không có sự tham gia
của các tổ chức quốc tế.
Ví dụ như việc WTO không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan
đến vấn đề an ninh, quốc phòng, theo thỏa thuận của các thành viên. Theo đó, WTO
chỉ tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực thương mại hành hoá, thương
mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hay tổ chức ASEAN chỉ hoạt động trong khuôn khổ các
nước Đông Nam Á, đây là sự giới hạn về phạm vi không gian
Trong khi đó, về nguyên tắc, tất cả các quốc gia đều có thẩm quyền ký kết điều
ước quốc tế. Đây chính là loại quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia. Trên thực
tế, quốc gia có thể từ chối một phần, toàn bộ hoặc chuyển cho quốc gia hay tổ chức
quốc tế khác thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. Đối với nhiều điều ước
quốc tế có ghi nhận rõ những loại quốc gia và tổ chức quốc tế nào có thể là thành viên
của điều ước đó. Điển hình là Công ước luật biển năm 1982, tại Điều 305 có liệt kê
một danh mục các thực thể có thể tham gia Công ước.
1.2. Quyền được kế thừa:
Quyền được kế thừa tài sản, điều ước, tài liệu cũng là một vấn đề hạn chế của tổ
chức Quốc tế liên chính phủ với tư cách là chủ thể luật Quốc tế:
Nếu một quốc gia tan rã thì tài sản, điều ước, sẽ do quốc gia đó kế thừa tất cả.
Đây là một điều tất yếu.
Ví dụ như: trong thực tế cho thấy khi Liên Xô tan rã thì Liên Bang Nga đã tiếp tục
hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế mà Liên Xô cũ ký
kết và yêu cầu hãy coi Liên Bang Nga là quốc gia thành viên của các điều ước quốc tế
hiện hành thay thế Liên Xô cũ. Liên Bang Nga tiếp tục hưởng quy chế thành viên của
6
Liên Xô cũ tại Liên hợp quốc và phải gánh chịu phần lớn nghĩa vụ của Liên Xô cũ để
lại, và một số trường hợp kế thừa khác như Séc và Slôvakia kế thừa Tiệp Khắc; Cộng
hòa hồi giáo IEMem kế thừa Bắc IEMem và Nam IEMem; Cộng hòa liên bang Đức kế
thừa Cộng hòa dân chủ Đức.
Hay như việc: khi Ấn Độ được tách ra thành Ấn Độ và Pakistan, thì đương nhiên
Ấn Độ trở thành thành viên của Liên Hợp quốc, còn Pakistan là thành viên của Liên
hợp quốc bằng con đường kết nạp thành viên mới.
Một quốc gia có thể kế thừa được hưởng toàn bộ tài sản của quốc gia để lại kế
thừa, kể cả tài sản trong và ngoài nước. Ví dụ như: “sau khi miền Nam hoàn toàn giải
phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã đưa ra tuyên
bố: “ Tất cả tài sản ở miền Nam Việt nam cũng nhưu ở nước ngoài, những bất động
sản và động sản, tiền bạc, các phương tiện giao thông,…trước thuộc chính quyền Sài
Gòn từ nay thuộc về nhân dân Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam được pháp luật quốc tế công nhận”. Quyền kế thừa chính đáng
này của Việt Nam đã được rất nhiều quốc gia công nhận và được Luật quốc tế bảo đảm
thực hiện. Ngày 13/5/1975, Bộ ngoại giao Italia đã đồng ý để Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nắm quyền sở hữu toàn bộ tài sản của Đại sứ
quán Ngụy trước đây taik Roma. Sau đó ít lâu, phái đoàn của Việt Nam đã cùng đại
diện Bộ ngoại giao Pháp đến tiếp quản Đại sứ quán Ngụy tại Paris.”
(8)
.
Trong khi đó, khi một tổ chức quốc tế giải tán thì các quốc gia thành viên có thể
kế thừa hoặc không kế thừa. Theo em nghĩ thì vấn đề kế thừa ở đây thì quyền lợi và tài
sản thì quốc gia nào cũng nên kế thừa. Vấn đề ở đây là nghĩa vụ và trách nhiệm thì có
thể có hoặc không.
Ví dụ như: việc khi ASEAN hay bất kì một tổ chức quốc tế nào mà Việt Nam là
thành viên giải tán thì không có nghĩa là chúng ta bắt buộc phải kế thừa các điều ước
quốc tế mà tổ chức đó có.
1.3. Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với
nhau và giữa thành viên với tổ chức quốc tế:
7
Một vấn đề nữa để tổ chức quốc tế được xem là chủ thể hạn chế của Luật uốc tế
đó là vấn đề giải quyết tranh chấp. Khi giải quyết tranh chấp cần phải lấy được sự
thống nhất ý kiến của tất cả các nước thành viên trong tổ chức.
Khi giải quyết xung đột và tranh chấp trong quốc gia thì đó là một vấn đề khá đơn
giản. Nhưng khi giải quyết tranh chấp giữa các thành viên trong một tổ chức quốc tế
thì nguyên tắc cơ bản nhất là phải lấy được sự thống nhất ý kiến thuộc tất cả các nước
thành viên. Đây là một vấn đề nan giải vì số lượng thành viên thuộc các tổ chức quốc
tế không phải là ít. Để được tất cả đồng ý là một công việc tốn rất nhiều thời gian,
công sức và của cải.
Em xin đưa ra ví dụ chứng minh về: quy trình giải quyết xung đột (tranh chấp)
của các nước tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). WTO là tổ chức quốc
duy nhất điều hành hệ thống thương mại toàn cầu. Trong đó, quy trình giải quyết tranh
chấp thương mại WTO là một vấn đề khá phức tạp. Khi một nước thành viên WTO áp
dụng một biện pháp chính sách thương mại và một hoặc một số thành viên khác coi là
vi phạm các quyền của họ được quy định trong các hiệp định WTO thì xuất hiện tranh
chấp. Khi một thành viên đưa tranh chấp ra kiện tại WTO, Hội đồng chung của WTO
với vai trò là cơ quan giải quyết tranh chấp (OSB) sẽ bổ nhiệm một đoàn thẩm phám có
quyền độc lập xem xét vụ kiện và đưa ra phán quyết dựa trên các hiệp định WTO và
cam kết của từng nước thành viên. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp của WTO là
giải pháp công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và các biên đều chấp nhận được. WTO
khuyến khích các bên tranh chấp tự tham khảo ý kiến và dàn xếp với nhau trước khi bắt
đầu và kể cả trong quá trình xét xử. Việc xét xử phải theo một lộ trình rõ ràng gồm
nhiều giai đoạn với thời gian cụ thể. WTO quy định các phán quyết tự động có hiệu lực
trừ khi bị tất cả các nước bác bỏ. Khi WTO đã phán quyết một nước thành viên vi phạm
quy định tổ chức thì nước đó phải nhanh chóng sửa sai nếu tiếp tục vi phạm thì sẽ phải
bồi thường hoặc chịu phạt.Đặc biệt, trong 8 năm qua WTO đã giải quyết được khoảng
300 vụ tranh chấp phát sinh.
8
2. PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH TÍNH “PHÁI SINH” TRONG QUYỀN
NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ CỦA TỔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN CHÍNH
PHỦ:
Tính phái sinh thể hiện ở chỗ quyền năng này không phải là thuộc tính vốn có của
chức quốc tế liên chính phủ mà do các quốc gia thành viên thừa nhận trao cho, quyền
năng này là quyền năng phái sinh từ quyền năng chủ thể Luật quốc tế của quốc gia.
Trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên thường thỏa
thuận về tư cách chủ thể, quy định về phạm vi thẩm quyền của tổ chức đó. Nghĩa là,
các thành viên thỏa thuận trao quyền đến đâu thì tổ chức quốc tế sẽ có được quyền
năng đến đó. Tư cách chủ của tổ chức quốc tế liên Chính phủ có từ thời điểm các văn
bản, hiến chương, điều lệ phát sinh hiệu lực.
Mỗi tổ chức quốc tế liên Chính phủ đều có quyền năng chủ thể luật quốc tế của
riêng mình (quyền năng phái sinh), được các chủ thể là thành viên của tổ chức quốc tế
thỏa thuận xây dựng lên và được ghi nhận trong điều ước quốc tế thành lập lên tổ chức
quốc tế. Đây là quyền năng riêng biệt chỉ giành riêng cho tổ chức quốc tế. Em xin đưa
ra một số ví dụ để chứng minh:
- Ví dụ thứ nhất: “ Liên hợp quốc là tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất
hiện nay, được thành lập trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc. Với ý nghĩa là cơ sở
pháp lý cho sự thành lập của liên hợp quốc, Hiến chương Liên hợp quốc đã được hơn
50 quốc gia tham gia Hội nghị San Francisco (Mỹ) ký ngày 26/6/1945 và bắt đầu có
hiệu lực từ ngày 24/10/1945 (đây cũng được coi là ngày thành lập Liên hợp quốc). Từ
hơn 50 quốc gia thành viên, hiện nay Liên hợp quốc đã có 192 quốc gia thành viên. Ví
dụ như: Hội đồng Quản thác, là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc. Theo
quy định tại Điều 87 của Hiến chương Liên hợp quốc, thì Hội đồng Quản thác có
những chức năng và quyền hạn sau:
+ Xem xét những báo cáo của nhà đương cục được giao quản lý lãnh thổ quản
thác;
+ Nhận xét và đơn thỉnh cầu sau khi tham khảo ý kiến nhà đương cục nói trên;
9
+ Cử người đến quan sát định kỳ từng lãnh thổ do nhà đương cục nói lên quản lý
theo thời hạn được thoả thuận với nhà đương cục ấy;
+ Tiến hành những việc trên hay những việc khác theo đúng những điều khoản của
các hiệp định về quản thác.”
(9)
- Ví dụ thứ hai: “Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày
1/1/1995, trên cơ sở Hiệp định Marrakesh. WTO hoạt động không chỉ trong lĩnh vực
thương mại hàng hóa như GATT, mà còn trong cả lĩnh vực thương mại dịch vụ, đầu tư
và thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ. Hiện nay, WTO có 153 thành viên và Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức này năm 2007. Đồng thời, “theo Điều
III, Hiệp định thành lập WTO quy định WTO có năm chức năng chính bao gồm: là
khuôn khổ đồng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành các
Hiệp định trong khuôn khổ WTO; là diễn đàn cho các cuộc đàm phán thương mại đa
phương; là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các thành viên); là cơ chế kiểm điểm
chính sách thương mại của các nước thành viên và hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng thế giới nhằm tăng cường tính gắn kết trong xây dựng chính sách
kinh tế toàn cầu.”
(10)

- Ví dụ thứ ba: “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập trên
cơ sở Tuyên bố Băng Cốc năm ngày 8/8/19677 của Hội nghị ngoại trưởng 5 quốc gia
thuộc khu vực Đông Nam Á là Thái Lan, Malaysia, Singapore, Philippin và
Indonesia.”
(11)
Hay như việc Liên minh Châu ÂU (EU) được thành lập trên cơ sở của
Hiệp ước Masstrict.
III. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC
TẾ CỦA TỔ CHỨC LIÊN CHÍNH PHỦ VỚI QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ
LUẬT QUỐC TẾ CỦA QUỐC GIA:
Bên cạnh những điểm giống nhau: đều là chủ thể Luật quốc tế, đều có quyền
năng chủ thể của luật quốc tế quy định, đồng thời phải đều thỏa mãn các điều kiện của
chủ thể luật quốc tế thì mới được hưởng những quyền đó; thì quyền năng chủ thể Luật
quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ và quyền năng chủ thể Luật quốc tế của
quốc gia lại có những điểm khác biệt cơ bản sau:
10
1. VỀ CƠ SỞ QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ:
Đối với quốc gia, cơ sở quyền năng chủ thể Luật quốc tế chính là chủ quyền -
thuộc tính chính trị pháp lý gắn liền với mỗi quốc gia. Đây là quyền năng nguyên
thủy, truyền thống gắn liền với quốc gia, khi quốc gia xuất hiện, là quyền năng đầy đủ
và trọn vẹn nhất vì quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế.
Còn đối với các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đó là do các quốc gia thành viên
trao cho để thực hiện các mục tiêu tôn chỉ của từng tổ chức (quyền năng chủ thể phái
sinh).
2. VỀ PHẠM VI QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ:
Quốc gia thực hiện quyền năng chủ thể Luật quốc tế trong phạm vi rộng hơn so
với tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Với các yếu tố cấu thành như: lãnh thổ xác định; dân cư cư trú thường xuyên,
chính phủ và khả năng tham gia quan hệ quốc tế; quốc gia có điều kiện và khả năng
tham gia vào nhiều lĩnh vực hợp tác khác nhau. Trong khi đó, mỗi tổ chức quốc tế liên
chính phủ được thành lập nhằm những mục đích nhất định (chính trị, quân sự, kinh tế,
…) nên quyền năng chủ thể Luật quốc tế mà các quốc gia thành viên trao cho chúng
cũng chỉ được giới hạn trong phạm vi các hoạt động để đảm bảo đạt được các mục
đích này.
Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức quốc tế liên chính phủ được xác định
cụ thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó, số lượng các quyền và nghĩa vụ của
các tổ chức quốc tế Liên chính phủ khác nhau sẽ khác nhau. Điểm khác biệt này thể
hiện ở chỗ:
Quốc gia có thể tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế nào xuất phát từ lợi ích
của chính mình. Còn tổ chức quốc tế liên chính phủ không tự xác định được phạm vi
quyền và nghĩa vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham gia trong
phạm vi được các thành viên trao quyền. Do đó, tổ chức quốc tế Liên chính phủ là chủ
thể phái sinh, chủ thể có quyền năng hạn chế (không đầy đủ) của luật quốc tế.
Ví dụ: “Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), theo thỏa thuận của các thành
viên, chỉ tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ. WIPO
11

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét