Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014
Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về chính sách thu hút đầu tư FDI của Malaixia vào Việt Nam
- 5 -
MIDA : Malaysian Intrustrial Development Authority
: Cục phát triển công nghiệp Malaixia
MITI : Ministry of International Trade and Industry Malaysia
: Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế Malaixia
M&A : Merger and Acquisition
: Mua lại và sáp nhập
NEP : New Economic Policy
: Chính sách kinh tế mới
NICs : Newly Industrialized Countres
: Các nước công nghiệp mới
ODA : Official Development Assistance
Viện trợ phát triển chính thức
OECD : Organization for Economic Cooperation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
RM : Ringit Malaysia
: Đồng ring gít Malaixia
R&D : Research and Development
: Nghiên cứu và phát triển
TMTD : Thương mại tự do
TNCs : Transnational Corporations
: Công ty xuyên quốc gia
TTNK : Thay thế nhập khẩu
UNCTA
C
: United Nations Conference on Trade and Development
: Tổ chức liên hợp quốc về thương mại và phát triển
USD : United States Dollar
: Đô la Mỹ
WB : World Bank
: Ngân hàng thế giới
WTO : World Trade Organization
: Tổ chức thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- 6 -
Danh mục các bảng, hình vẽ
Bảng Nội dung Trang
Bảng 1.1. Dòng vốn FDI trên thế giới, thời kỳ 2000 - 2005
37
Bảng 1.2. Điều chỉnh quy chế FDI của các nước, 1991 - 2004 38
Bảng 2.1. Một số nhà đầu tư lớn vào Malaixia thời kỳ 1993 - 1997 73
Bảng 2.2. Cơ cấu FDI vào các ngành kinh tế Malaixia từ 1971- 1987 74
Bảng 2.3. FDI vào Malaixia phân theo các bang, 1990 - 1997 76
Bảng 2.4. Tỷ trọng vốn FDI trong ngành chế tạo ở Malaixia, 2002 - 2005 99
Bảng 3.1. So sánh chi phí kinh doanh trong các doanh nghiệp FDI của Việt
Nam và một số nước châu á năm 2004
137
Bảng 3.2. Đánh giá năng lực cạnh tranh theo các nhân tố tác động đến FDI 138
Bảng 3.3. So sánh một số chính sách thu hút FDI giữa Việt Nam và Malaixia
140
Hình vẽ Nội dung Trang
Hình 1.1. Dòng vốn FDI trên thế giới giai đoạn 1993 - 2005 35
Hình 2.1. Dòng FDI vào Malaixia, 1975 - 1996 71
Hình 2.2. FDI vào ASEAN theo nước chủ nhà, 1995 - 2004 98
Hình 2.3. FDI vào ngành công nghiệp chế tạo Malaixia,1996 - 10/2001 100
Hình 3.1. Tình hình thu hút vốn FDI tại Việt Nam, 1998 - 2005 125
Hình 3.2. Cơ cấu FDI đăng ký vào Việt Nam theo ngành, 1988 - 2005 127
Hình 3.3. Cơ cấu nguồn FDI vào Việt Nam, 1988 - 2005 128
- 7 -
Mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) đang đặt ra nhiều thời cơ và thách
thức đối với các nước đang phát triển (ĐPT), trong đó có vấn đề cạnh tranh thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nguồn vốn FDI có ý nghĩa quan
trọng, cần thiết đối với các nước ĐPT, nó chẳng những bổ sung cho nguồn vốn đầu
tư phát triển, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, khai thác và nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, mà còn tiếp nhận được công nghệ, kinh
nghiệm quản lý, mở rộng thị trường Vấn đề thu hút FDI trong hội nhập KTQT
phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của chính sách nhằm tạo lập môi trường
đầu tư mang tính cạnh tranh để thu hút FDI.
Thời gian qua, Malaixia là một trong những nước đã khá thành công trong
việc đưa ra những chính sách thu hút FDI. Đã tạo thêm nguồn lực đẩy nhanh công
nghiệp hóa (CNH) theo chiến lược hướng ngoại (hướng vào xuất khẩu - HVXK)
trong quá trình hội nhập KTQT. Qua mấy thập kỷ phát triển, Malaixia chuẩn bị gia
nhập hàng ngũ các nước công nghiệp mới (NICs).
Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế (1986 - nay), với đường lối "Đa
dạng hóa, đa phương hóa kinh tế đối ngoại" chủ trương mở cửa nền kinh tế bằng
những chính sách tích cực, đã đạt được những kết quả nhất định trong thu hút FDI
góp phần thúc đẩy CNH, hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Tuy nhiên, trong chính sách
thu hút FDI vẫn bộc lộ không ít những hạn chế, ảnh hưởng đến tốc độ, quy mô và
hiệu quả trong thu hút FDI. Do vậy, việc tìm hiểu kinh nghiệm từ Malaixia là nước đi
trước và đã có những thành công trong thu hút FDI có ý nghĩa thiết thực về lý luận và
thực tiễn đối với Việt Nam nhằm huy động các nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư
phát triển, để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp. Vì vậy, NCS chọn vấn đề: "Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
- 8 -
của Malaixia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng, kinh nghiệm
và khả năng vận dụng vào Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
Về vấn đề chính sách thu hút FDI của Malaixia cũng đã có một số công
trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước.
ở nước ngoài, công trình nghiên cứu “Malaixia - Tổng quan về khung pháp
lý trong đầu tư trực tiếp nước ngoài” của tác giả Arumugam Rajenthran trên
Kinh tế và tài chính số 5/2002 do Viện Nghiên cứu Đông Nam á Xingapo xuất
bản tháng 10/2002. Tại đây, tác giả đã nghiên cứu và phân tích các khía cạnh
pháp lý liên quan đến FDI ở Malaixia về lập pháp, đất đai, lao động, môi trường;
một số chính sách khuyến khích về thuế và phi tài chính; các quyền sở hữu trí
tuệ; quản lý và giải quyết các tranh chấp Công trình nghiên cứu này, tác giả
chủ yếu phân tích trên góc độ vĩ mô, gắn với bối cảnh cụ thể để phân tích cội
nguồn xuất phát của những chủ trương, chính sách cũng như mục tiêu của những
quy định trong chính sách thu hút FDI của Malaixia. Đồng thời, công trình
nghiên cứu cũng nêu lên một số thách thức của Malaixia trong vấn đề xử lý các
mối quan hệ với các nước láng giềng AESEAN; liên quan đến bản thỏa thuận về
thương mại liên quan đến các khía cạnh đầu tư (TRIM); về bản thỏa thuận về các
vấn đề thương mại trong quyền sở hữu trí tuệ (TRIP). Tuy nhiên, công trình
nghiên cứu này cũng chưa nghiên cứu đầy đủ nội dung các chính sách thu hút
FDI mà Malaixia đã áp dụng và một số nội dung công trình được nghiên cứu
cũng mới đề cập đến thời điểm năm 1999.
Trong khuôn khổ công trình nghiên cứu "Đầu tư trực tiếp nước ngoài và công
nghiệp hóa ở Malaixia, Xingapo, Đài Loan và Thái Lan" của OECD, các tác giả
Linda Y. C. Lim và Pang E. Fong (1991) đã khái quát một số xu hướng FDI trên thế
giới, đồng thời tập trung phân tích thực trạng thu hút FDI để phục vụ CNH và cũng
đã đề cập một số chính sách thu hút FDI của Malaixia, Xingapo, Đài Loan và Thái
Lan, và cũng chỉ dừng lại đến năm 2000. Tác giả Yumiko Okamoto (1994) cũng đã
có bài nghiên cứu "Tác động của chính sách tự do hóa thương mại và đầu tư đến
- 9 -
nền kinh tế Malaixia" trong cuốn "Các nền kinh tế phát triển XXXII - 4" xuất bản
tháng 12/1994; tác giả Rajah Rasiah (1995) với đề tài "Tư bản nước ngoài và CNH
ở Malaixia" cũng đã đề cập đến một số chính sách về chuyển giao công nghệ, liên
kết các ngành kinh tế của Malaixia được phản ánh đến năm 1995, vv
ở Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về chính sách thu hút
FDI của Malaixia. Công trình nghiên cứu “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ
công nghiệp hóa ở Malaixia - kinh nghiệm đối với Việt Nam” của Tiến sĩ Phùng
Xuân Nhạ, được Nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2000 tại Hà Nội. Đây là
công trình nghiên cứu đầu tiên có hệ thống về FDI ở Malaixia. Tác giả nghiên
cứu khá sâu về thực trạng kết quả cũng như đánh giá tác động của FDI đối với
CNH của Malaixia, đồng thời cũng đã đề cập một số chính sách thu hút FDI của
Malaixia. Tuy vậy, vấn đề chính sách thu hút FDI của Malaixia chưa được
nghiên cứu và đánh giá thật đầy đủ và về thời gian cũng mới cập nhật đến giữa
những năm 1990. Công trình nghiên cứu của Đào Lê Minh và Trần Lan Hương
trong “Kinh tế Malaixia” được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 2001
tại Hà Nội. Tại công trình nghiên cứu này, các tác giả cũng đã đề cập rất khái
quát một số chính sách cũng như kết quả thu hút FDI của Malaixia đến năm 2000
nhưng cũng chỉ giới thiệu mang tính chất khái quát.
Một số nghiên cứu khác có liên quan đến chính sách thu hút FDI của Malaixia
như: Hoàng Thị Thanh Nhàn (2003) trong "Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc,
Malaixia và Thái Lan"; Phan Xuân Dũng (2004) trong "Chuyển giao công nghệ ở
Việt Nam - thực trạng và giải pháp"; Nguyễn Bích Đạt (2006) trong "Khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam". Ngoài ra, có một số bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành có
đề cập liên quan đến chính sách, kết quả thu hút FDI vào Malaixia ở những thời
điểm nhất định.
Nhìn chung, đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện các chính sách thu hút FDI của Malaixia trong quá trình hội nhập
KTQT tới thời điểm năm 2005. Vì vậy, nhiệm vụ của luận án là nghiên cứu tiếp nối
- 10 -
về vấn đề này nhằm rút ra một số bài học kinh nghiệm từ chính sách thu hút FDI
của Malaixia với Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Từ nghiên cứu chính sách thu hút FDI của Malaixia, luận án rút ra một số bài
học kinh nghiệm về việc tạo lập môi trường mang tính cạnh tranh về thu hút FDI
trong hội nhập KTQT có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là chính sách thu hút FDI của Malaixia
trong quá trình hội nhập KTQT.
- Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề chính sách mà Malaixia đã áp dụng để
tạo môi trường mang tính cạnh tranh để thu hút FDI trong hội nhập KTQT. Thời
gian nghiên cứu từ năm 1971 đến năm 2005. Tuy nhiên, để làm rõ thêm nội dung
nghiên cứu, luận án đã đề cập đến những vấn đề về chính sách thu hút FDI đã được
thực thi ở Malaixia sau năm 2005.
Chính sách thu hút FDI có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống các chính
sách, luật pháp tương đối đồng bộ trong thu hút FDI gắn với nhu cầu phát triển và
tình hình phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế. ở đây phạm vi nội dung
nghiên cứu của luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số chính sách chủ yếu như:
Chính sách tài chính - tiền tệ; chính sách giá; chính sách về cơ sở hạ tầng; chính
sách phát triển nguồn nhân lực; chính sách chuyển giao công nghệ; chính sách xúc
tiến đầu tư; quản lý nhà nước với FDI đã được thực thi trong thu hút FDI ở
Malaixia. Tuy nhiên trong nghiên cứu, một số chính sách phát triển kinh tế - xã hội
có liên quan đến hoạt động thu hút FDI cũng được đề cập với mục đích để làm rõ
thêm chính sách thu hút FDI ở Malaixia trong thời gian qua. Đồng thời trong quá
trình nghiên cứu, những kết quả và hạn chế trong thu hút FDI cũng được sử dụng để
làm rõ những thành công và chưa thành công của chính sách thu hút FDI. Đó là cơ
sở để nghiên cứu sinh rút ra những bài học kinh nghiệm từ hoạch định và thực thi
chính sách trong thu hút FDI cho phát triển kinh tế ở Malaixia.
5. Phương pháp nghiên cứu
- 11 -
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đã kết hợp các phương pháp trong nghiên cứu như: Phương pháp lịch sử
và phương pháp logic, phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh để nghiên cứu và đánh giá các chính sách đã được thực thi ở
Malaixia trong thu hút FDI.
6. Những đóng góp của luận án
- Làm rõ cơ sở lý luận về chính sách thu hút FDI trong hội nhập KTQT.
- Làm rõ thực trạng chính sách thu hút FDI và những đánh giá về vai trò của
chính sách (tích cực và hạn chế) trong tạo lập môi trường mang tính cạnh tranh để
thu hút FDI. Từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo với Việt
Nam trong hoạch định và hoàn thiện chính sách thu hút FDI.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về chính sách thu hút FDI
của Malaixia trong hội nhập KTQT vào điều kiện nước ta hiện nay, đồng thời đưa
ra một số kiến nghị để tăng thêm tính khả thi trong vận dụng những kinh nghiệm
này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, luận án được chia thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chính sách thu hút FDI.
Chương 2: Chính sách thu hút FDI của Malaixia trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế (1971 - 2005).
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về chính sách thu hút FDI của
Malaixia vào Việt Nam.
- 12 -
Chương I
một số vấn đề lý luận về chính sách thu hút FDI
1.1. FDI và vai trò của FDI đối với các nước đang phát Triển
1.1.1. Khái niệm về FDI
1.1.1.1. Khái niệm
Xét trong phạm vi một quốc gia, đầu tư bao gồm hai loại: Đầu tư trong nước
và đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài là một cách hiểu của đầu tư quốc tế.
Phân loại theo dòng chảy của vốn đầu tư quốc tế, một quốc gia có thể là nước đầu
tư hoặc là nước nhận đầu tư. Đầu tư quốc tế là một trong những hình thức cơ bản
của hoạt động KTQT và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư do xu thế
toàn cầu hóa, hội nhập KTQT ngày càng mạnh mẽ.
Đầu tư quốc tế là một trong những hình thức cơ bản của hoạt động KTQT và
ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư do xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
KTQT ngày càng mạnh mẽ.
Xét về phương thức quản lý vốn đầu tư, đầu tư quốc tế bao gồm các hình thức
sau đây: Đầu tư gián tiếp nước ngoài; tín dụng thương mại quốc tế ; đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI): Là hình thức đầu
tư mà nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa vốn đủ lớn và kỹ thuật vào nước nhận đầu tư,
trực tiếp tham gia vào việc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh. Khác với
đầu tư gián tiếp, trong đầu tư trực tiếp chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản
- 13 -
lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. FDI được xem là biện pháp hữu hiệu để giải
quyết vấn đề vốn đầu tư phát triển của các nước ĐPT, khi mà các khoản viện trợ và các
khoản vay quốc tế (kể cả nguồn vốn ODA) ngày càng có xu hướng giảm. Đến nay đã có
khá nhiều cách hiểu khác nhau về FDI, chẳng hạn:
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đưa ra khái niệm FDI là một tác vụ đầu tư bao hàm một
quan hệ dài hạn, phản ánh một lợi ích lâu bền của một thực thể cư ngụ tại một nước gốc
(nhà đầu tư trực tiếp) đối với một thực thể cư ngụ tại một nước khác (doanh nghiệp tiếp
nhận đầu tư). Khái niệm này đã nêu được mục đích của FDI là nhằm thu về những lợi
ích lâu dài cho nhà đầu tư, đồng thời chỉ ra dòng vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào nước tiếp nhận đầu tư.
Theo Ngân hàng Pháp quốc: Một hoạt động đầu tư được xem là FDI khi: (a) Thiết
lập được một pháp nhân hoặc một chi nhánh ở nước ngoài; (b) nắm giữ được một tỷ lệ
có ý nghĩa về vốn cho phép nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiểm soát việc quản lý
doanh nghiệp tại nước tiếp nhận đầu tư; (c) các khoản cho vay hoặc ứng trước ngắn hạn
của chủ đầu tư cho công ty tiếp nhận đầu tư một khi đã thiết lập giữa hai bên mối quan
hệ công ty mẹ và chi nhánh.
Khái niệm này đã nêu được về mặt quản lý, nhà đầu tư có quyền kiểm soát doanh
nghiệp tiếp nhận đầu tư cũng như chỉ ra một số hình thức FDI.
Các nhà kinh tế Trung Quốc cho rằng, đầu tư nước ngoài là người sở hữu tư bản
tại nước nhận đầu tư bằng cách mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế (tức là doanh
nghiệp) của nước đó. Khoản đầu tư này phải tương ứng với tỷ lệ cổ phần đủ lớn để tạo
ra ảnh hưởng quyết định, chi phối đối với thực thể kinh tế đó.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation
and Development - OECD) đưa ra khái niệm: FDI phản ánh những lợi ích khách quan
lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một nước (nhà đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở
kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư (doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp). Lợi ích lâu dài bao gồm sự tồn tại các mối quan hệ giữa nhà đầu
tư và doanh nghiệp đầu tư, trong đó nhà đầu tư giành được ảnh hưởng quan trọng và có
hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp bao hàm sự giao dịch ngay từ
- 14 -
đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp sau giữa hai thực thể được liên kết một cách chặt
chẽ.
Khái niệm này đã nêu khá đầy đủ về xuất xứ của nguồn vốn đầu tư, động cơ chủ
yếu của FDI là phần vốn sử dụng ở nước ngoài gắn liền với việc kiểm soát hoặc ảnh
hưởng nhất định tới hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư.
Tuy nội dung cụ thể các khái niệm trên có khác nhau, nhưng đều thống nhất ở
một số điểm: FDI là hình thức đầu tư quốc tế, cho phép các nhà đầu tư tham gia điều
hành hoạt động đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư tuỳ theo tỷ lệ vốn góp; quyền sở hữu
gắn liền với quyền sử dụng tài sản đầu tư, nhà đầu tư có thể có lợi hơn nếu kinh
doanh có hiệu quả và ngược lại phải gánh chịu rủi ro khi kinh doanh thua lỗ.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu khái quát: FDI là một hình thức kinh doanh
vốn mà quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu tài sản đầu tư, tạo ra một doanh
nghiệp có nguồn vốn tạo lập từ nước ngoài đủ lớn hoạt động theo quy định pháp
luật của nước nhận đầu tư, nhằm khai thác các lợi thế, các nguồn lực tại chỗ, đảm
bảo lợi ích lâu dài của nhà đầu tư nước ngoài và nước nhận đầu tư.
1.1.1.2. Các hình thức FDI
Có nhiều hình thức tổ chức FDI khác nhau, tùy thuộc điều kiện và quy định
pháp luật của mỗi quốc gia, nhưng thường áp dụng các hình thức chủ yếu sau:
a) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Capital Enterprise)
Là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (do một hay
nhiều tổ chức hoặc cá nhân) bỏ vốn đầu tư, thành lập doanh nghiệp, tự quản lý điều
hành và tự chịu trách nhiệm toàn bộ về kết quả sản xuất kinh doanh. Loại hình doanh
nghiệp này được thành lập tại nước nhận đầu tư dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên hoặc cổ phần, là pháp nhân của nước sở tại tuân theo luật
pháp của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được thành lập có thể
hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài khác để thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài mới.
Hình thức đầu tư này ngày càng được các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn vì
họ được toàn quyền quản lý và hưởng lợi nhuận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ tài
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét