Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

thanh tra Việt Nam

chính là sự kiểm kê. Nếu các đồng chí muốn kiểm kê từng miếng sắt, từng mảnh vải,
nh thế là sẽ có chủ nghĩa xã hội
2
.
Quyền kiểm kê, kiểm soát là thuộc về nhà nớc vô sản, mà lúc đầu là sự kiếm soát
của công nhân, sau đó sẽ do toàn thể dân c tiến hành. Lênin khẳng dịnh: Từ nay cho
đến khi giai đoạn cao cảu chủ nghĩa cộng sản xuất hiện, những ngời xã hội chủ nghĩa
yêu cầu xã hội và nhà nớc kiểm soát thật nghiêm ngặt mức độ lao động và mức độ tiêu
dùng và sự kiểm soát này không phải do nhà n ớc của bọn quan lại thi hành, mà do
nhà nớc cảu công dân vũ trang thi hành
3
. Quyền kiểm kê, kiểm soát của nhà nớc đợc
giao cho Bộ dân uỷ thanh tra công nông đảm nhiệm.
Trong quyết định của Ban chấp hành Trung Ương các Xô Viết toàn Ngã đã ghi
rõ: Giao trách nhiệm cho Bộ dân uỷ thanh tra công nông kiểm soát và giám sát hoạt
động cảu tất cả mọi xí nghiệp, cơ quan và tổ chức nào, xét về mặt thực hiện những
nghĩa vụ mà họ đảm nhiệm trớc các cơ quan nhà nớc
4
.
Đối tợng chịu kiểm kê, kiểm soát trớc hết phải bắt đầu bằng việc tớc đoạt bọn t
bản, bằng việc công nhân kiểm soát bọn t bản
5
, tiếp đó là bọn ăn cắp, bọn ăn bám, bọn
lu manh, bọn đầu cơ, làm ăn gian dối, nhận hối lộ và các biểu hiện của tính tự phát vô
chính phủ và tất cả mọi xí nghiệp, cơ quan và tổ chức xã hội và t nhân, không loại trừ
một xí nghiệp, cơ quan và tổ chức nào.
Nội dung của kiểm kê, kiểm soát chủ yếu là tập trung vào kiểm tra kiểm soát
việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ yếu cảu nền kinh tế; các hoạt động tiền
tệ và tài chính của bọn nhà giàu, của giai cấp hữu sản; việc thực hiện chức trách,
nhiệm vụ, và kỷ luật lao động của nhà nớc; của các công chức nhà nớc.
Về phơng pháp tổ chức kiểm kê, kiểm soát phải hết sức linh hoạt và phong phú.
Việc kiểm soát chỉ có thể do nhân dân tiến hành và phải để cho công nhân chiếm đa số
trong tất cả các cơ quan có chức năng kiểm kê, kiểm soát. Phải dựa vào tính áng tạo của
quần chúng, phải phối hợp kiểm tra từ dới lên và từ trên xuống. Kiểm tra phải thực sự,
công khai; xử lý phải nghiêm minh và kiên quyết thì mới có hiệu quả.
2

3

4

5

5
Ngày nay, trên thế giới hầu hết các quốc gia đều tổ chức ra các cơ quan để thực
hiện chức năng giám sat, thanh tra, kiểm tra, và kiểm soát toàn bộ các hoạt động của
đất nớc. Tuy nhiên, do những điều kiện về lịch sử, chính trị, kinh tề, xã hội, văn hoá và
truyền thống pháp lý khác nhau, nên mỗi quốc gia có một mô hinh tổ chức và phơng
thức hoạt động riêng. Căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tính chất
hoạt động của các cơ quan này có thể chia thành ba loại hình cơ bản sau:
Thanh tra Quốc hội: Là mô hình phổ biển ở các nớc Bắc âu và Châu Mỹ nh:
Thuỵ Điển, Đan Mạch, Canada.
Thanh tra giám sát hành chính: Là loại hình tổ chức nhiều ở các nớc Châu á,
và Châu Phi, nh Trung Quốc, Hàn Quốc, Ai Cập.
Thanh tra chuyên ngành: Đây là một loại hình đợc thiết lập ở hầu hết ở các nớc
và ở nhiều nớc nó tồn tại song song với các loại hình trên.
Qua việc nghiên cứu các mô hình tổ chức, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và phơng thức hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, và giám sát của một số n-
ớc, có thể rút ra một số vấn đề chủ yếu sau:
Thanh tra, kiểm tra và giám sát là phục vụ cho quản lý và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của công tác quản lý nhà nớc.
Mục đích của thanh tra, kiểm tra, giám sát là phục vụ cho quản lý và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nớc.
Chủ thể cảu thanh tra, kiểm tra và giám sát là thuộc về nhà nớc, việc tổ chức
tiến hành các hoạt động này thờng do các tổ chức chuyên trách thực hiện.
Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chủ yếu là việc chấp hành chính sách,
pháp luật; việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức nhà nớc. Ngoài ra, các tổ
chức thanh tra, kiểm tra và giám sát tuy có chung một mục đích và cung thực hiện một
chức năng của quản lý nhà nớc, nhng mỗi nớc có những đặc điểm về kinh tế, chính trị,
xã hội và truyền thống pháp lý khác nhau, nên việc thiết kế mô hình tổ chức và sắp đặt
vị trí của các cơ quan này cũng có sự khác nhau.
6
Về đối tợng, do vị trí của các cơ quan thanh tra, kiểm tra và giám sát khác nhau
cho nên đối tợng của nó cũng có sự khác nhau. Thanh tra Quốc hội giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nớc bao gồm: cơ quan hành pháp và toá án. Thanh tra, giám sát
hành chính giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nớc và công chức nhà
nớc, còn thanh tra chuyên ngành thì kiểm tra, thanh tra hoạt động của các cơ quan, đơn
vị, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý nhà nớc của bộ ngành.
Về phơng thức thanh tra, kiểm tra và giám sát. Do vị trí, chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của các cơ quan này khác nhau, cho nên phơng thức hoạt động của nó
cũng khác nhau. Mặt khác, ngay trong một loại hình thanh tra, nhng do pháp luật của
mỗi nớc quy định khác nhau, nên phơng thức hoạt động cũng có những nét đặc thù
riêng. Tuy có sự khác nhau nh vậy, song phơng thức hoạt động của các tổ chức này
cũng có những net chung nh: coi trong phòng ngừa là chính, chú trong thanh tra, kiểm
tra tài chính và ngày này các nớc có xu hớng vợt lên cách thức kiểm tra cụ thể, trực
tiếp và có sự quan sát, đánh giá toàn diện các mặt về quản lý, để đa ra các kết luận, kiến
nghị điều chỉnh có tính chất vĩ mô.
ở nớc ta, ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nớc Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 23 tháng 11 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh số 64/SL thàh lập Ban thanh tra đặc biệt với nhiệm vụ giám sát tất cả các công
việc và các nhân viên của các Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ.
Về sau này, khi nói đến thuật ngữ thanh tra thờng chỉ chức năng, nhiệm vụ của
các tổ chức thanh tra Nhà nớc, giám sát chỉ chức năng của Quốc hội hay nhiệm vụ
của Ban thanh tra nhân dân, kiểm tra chỉ chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra
Đảng Khi nói đến ph ơng pháp hay cách thức làm việc thì tuỳ theo từng công việc cụ
thể có thể dùng nh: kiểm tra toàn bộ sổ sách, giấy tờ; kiểm tra quỹ hay kiểm kê kho;
kiểm soát các hoạt động Ngân hàng, giám sát tất cả các công việc của Uỷ ban nhân
dân.
Về công tác thanh tra đợc quan niệm nh sau:
Về mục đích thanh tra: Theo pháp lệnh thanh tra năm 1990 là nhằm phát huy
nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm
7
vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cơng pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nớc,
các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
Về chủ thể thanh tra: Thanh tra là một công tác rất quan trọng, một công
việc thờng xuyên của chính quyền nhân dân, là một hoạt động quản lý của nhà nớc, là
một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nớc.
Về đối tợng thanh tra: Theo pháp lệnh thanh tra năm 1990, các tổ chức thanh
tra nhà nớc có chức năng, nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện chính sác, pháp luật,
nhiệm vụ, kế hoạch nhà nớc của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, kiểm sát của cơ quan Điều tra, Kiểm sát, Toà án, và việc giải quyết
tranh chấp hợp động kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế của cơ quan trọng tài kinh
tế.
Về nội dung thanh tra: chính là việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
kế hoạc nhà nớc của các cơ quan, tổ chức và cá nhân (Điều 1 pháp lệnh thanh tra).
Về phơng thức thanh tra: Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trớc hết
là thanh tra phải đi tận nơi, xem tận chỗ. Muốn thanh tra, kiểm soát có kết quả tốt,
việc thanh tra, kiểm soát phải có hệ thống và làm thờng xuyên. Phơng pháp thanh tra,
kiểm soát từ trên xuống với từ dới lên. Ngơi nói:Kiểm soát có hai cách, một cách là từ
trên xuống. Tức là ngời lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình.
Một cách nữa là từ dới lên. Tức là quần chúng và các bộ kiểm soát sự sai lầm của ngời
lãnh đạo và bày tỏ cải cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là tốt nhất để kiểm soát
các nhân viên. Thanh tra không chỉ kiểm tra, xem xét việc làm đó đúng hay sai, tốt
hay cha tốt mà phải chỉ cho cấp dới, giúp cho cấp dới biết cách sửa chữa để làm tốt hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Thanh tra cũng không phải chỉ điều tra, nghiên
cứu việc chấp hành nghị quyết, chị thị đã đợc đến đâu mà còn phải theo dõi cho đến khi
công việc đó làm xong, làm tốt thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của ngời dới.
Muốn thanh tra, kiểm soát có kết quả tốt, ngời cán bộ thanh tra phải là những ng-
ời có uy tín, có đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn mà công việc đòi hỏi, Ngời nói:
Thái độ của cán bộ thanh tra là phải cẩn thận: Nghe không đợc thiên lệch, nghe một
bên, nên nghe ngời này, nghe ngời kia. Phải khách quan ở địa phơng nào đấy phải đến
8
tận nơi, nghe nghóng, tìm hỏi, chịu khó. Quan liêu sẽ không làm đợc nhiệm vụ. Phải
cẩn thận khách quan, điều tra kỹ lỡng, chịu khó .
Có thể lấy quan điểm của Đảng, nhà nớc, và chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác
thanh tra là hết sức sâu sắc và toàn diện, bao gồm nhiều nội dung khác nhau nh: mục
đích, chủ thể, đối tợng, nội dung, phơng thức thanh tra. Những t tởng và quan điểm này
là cơ sở để hiểu rõ, hiểu sâu hơn khái niệm thanh tra và hoạt động thanh tra trong quản
lý nhà nớc.
Ngày nay, các khái niệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, và kiểm soát đợc
sử dụng phổ biến trong hoạt động quản lý nói chung và trong quản lý nhà nớc nói riêng.
Vậy thanh tra, kiểm tra là gì?
Thanh tra (tiến anh là Inspect) xuất phát từ gốc la tinh( inspectare) có nghĩa là
nhìn vào bên trong , chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một
đối tợng nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, nghĩa thứ nhất thanh tra là điều tra, xem xét
để làm rõ vụ việc; nghĩa thứ hai là chỉ ngời làm nhiệm vụ thanh tra.
Nhìn từ góc độ quản lý kinh tế thì:
Thanh tra là một chức năng của quyền hành pháp. Cơ quan thanh tra thuộc cơ
cấu các cơ quan của Chính phủ, của bộ trung ơng và các cơ quan hành chính ở địa ph-
ơng.
Theo nghĩa chung, thanh tra là hoạt động của cơ quan hành pháp, cơ quan hành
chính nhà nớc, có chức năng duy trì các hoạt động của cơ quan và của công chức hành
chính phù hợp với pháp luật của nhà nớc, bằng các hoạt động xem xét, thẩm định lại
những hành vi của công chức, những hoạt động của cơ quan hành chính nhà nớc trên cơ
sở những quy định pháp lý về quyền hạn, nhiệm vụ của các cá nhân công chức, cán bộ
và các nhân viên khác trong cơ quan hành chính và tổ chức.
Trong quá trình hoàn thiện các thể chế dân chủ và pháp quyền, hoạt động thanh
tra ngày càng đợc khẳng định theo xu hớng.
Từ chỗ nằm trong cơ cấu hỗn hợp của hoạt động quản lý, cha phân định rõ đến
chỗ ngày càng hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức và nội dung hoạt động.
9
Sự phân định về tổ chức, dẫn đến sự phân định rõ về chức năng vai trò trong
tổng thể hoạt động quản lý hành chính.
Hoạt động thanh tra ngày càng có điều kiện phát triển theo hớng có chuyên
ngành sâu, đợc đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn, đợc trang bị những phơng tiện kỹ
thuật phục vụ cho các hoạt đọng thảm đinh, giám định.
Đặc trng của hoạt động thanh tra:
Thứ nhất: Thanh tra là một hoạt động thuộc chức năng của quyền hành pháp.
Mục đích chung nhất của hoạt động thanh tra là hoạt động tự điều chỉnh trong nội bộ cơ
quan hành chính nhà nớc. Trung quản lý nhà nớc đơng nhiên có hoạt động đúp pháp
luật. Đồng thời, trong quản lý không thể có sai phạm, thiếu sót. Quản lý là một hoạt
động vừa có tính khoa học, vừa có tính sáng tạo. Cùng một tình huống quản lý, có thể
có nhiều, thậm chí rất nhièu giải pháp thực hiện. Nó tuỳ thuộc vào các yếu tố kách
quan, chủ quan, vào điều kiện kinh tế, xã hội hay trình độ dân trí. Đặc biệt quản lý còn
chịu ảnh hởng của các yéu tố thuộc bản thân ngời điều hành: năng lực, trình độ, tuổi
tác, tính cách và phẩm chất của họ.
Mặt khác, trong hoạt động nhà nớc, không phải cací gì cũng đa ra toà án để xem
xét. Nhà nớc pháp quyền đx có sự phân chia chức năng. Theo đó, mỗi cơ quan có chức
năng khác nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Các nhà khoa học quản lý phải xem
xet, tính chất, mức độ của những lỗi lầm để xem xét cần dùng biện pháp nào để điều
chỉnh.
Thứ hai, ngoài hệ thống thanh tra nhà nớc, còn có hệ thống thanh tra chuyên
ngành nh thanh tra giáo dục, thanh tra giao thông, thanh tra y tế. Thanh tra chuyên
ngành là một nhánh của hoạt động thanh tra gắn liền với một ngành, một lĩnh vực nhất
định, xuất phát từ tính chất phức tạp về chuyên môn nghiệp vụ của các ngành, các lĩnh
vực khác nhau trong hệ thống quản lý nhà nớc.
Còn kiểm tra (control) chỉ một hoạt động nhằm thẩm định, xác định một hành vi
của cá nhân hay một tổ chức . Kiểm tra bao giờ cũng đa lại những kết luận đối với
những hành vi (đã nêu) hoặc các biện pháp sử lý khi hành vi vợt quá những giới hạn đã
đợc quy định trớc.
10
Kiểm tra có thể đợc hiểu theo hai nghĩa : Theo nghĩa rộng; để chỉ hoạt động của
các tổ chức xã hội, các đoàn thể và của công dân . Kiểm tra hoạt động bộ máy Nhà nớc.
Theo nghĩa này tính quyền lực Nhà nớc trong kiểm tra bị hạn chế vì các chủ thể thực
hiện kiểm tra không có quyền áp dụng trực tiếp những biện pháp cỡng chế nhà nớc .
Theo nghĩa hẹp hơn, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét , xác
minh một việc gì đó của đối tợng bị quản lý xem có phù hợp hay không phù hợp với
trạng thái định trớc (kiểm tra mang tính nội bộ của ngời đứng đầu cơ quan kiểm tra ph-
ơng diện giao thông ). Theo nghĩa này, chủ thể kiểm tra có thể áp dụng một chế tài
pháp lý nhất định, nh áp dụng các hình thức kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
buộc phải thực hiện một số biện pháp ngăn chặn hành chính. ở nghĩa này, khái niệm
kiểm tra nằm trong khái niệm thanh tratổ chức thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng,
của chính quyền trong việc kiểm tra sự chấp hành đờng lối, chính sách của Đảng, pháp
luật, kế hoạch của Nhà Nớc . Pháp lệnh thanh tra 1990 cũng quy định: Thanh tra Bộ,
Uỷ ban Nhà Nớc hớng dẫn , kiểm tra t tởng các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản
lý.(Điều 14).
Tóm lại, kiểm tra là quá trình xem xét các hoạt động nhằm mục đích làm cho các
hoạt động đạt kết quả tốt hơn. Đồng thời giúp phát hiện những sai sót lệch lác để có
biện pháp khắc phục bảo đảm cho thực hiện đúng hớng.
Kiểm tra có các đặc điểm quan trọng nh:
Kiểm tra là một quá trình liên tục về thời gian và không gian.
Có mục đích và mục tiêu rõ ràng.
Tạo cơ sở để hoàn thiện các hoạt động và cải tiến hệ thống, tạo môi trờng hoạt
động lâu dài cho hệ thống.
Phát hiện ra những sai sót của hệ thống, trên cơ sở đó phát hiện những cái hay
loại bỏ những cái xấu. Nâng cao năng lực của nhà quản lý, tạo niềm tin cho những ngời
quan tâm đến hoạt động đợc kiểm tra.
Kiểm tra không phải là giai đoạn cuối cùng.
Nh vậy chúng ta đều biết, thanh tra, kiểm tra là chức năng chung của quản lý
Nhà nớc, là hoạt động mang tính phản hồi (rà soát, nhiều khi là phản ứng lại) đối với
11
chu trình quản lý nhằm phân tích, đánh giá, theo dõi những mục tiêu, nhiệm vụ quản lý
đã đề ra.
Với t cách là một chức năng quản lý, là một giai đoạn của chu trình quản lý, khái
niệm thanh tra và kiểm tra có những net tơng đồng nh đã nêu, cho nên trong hoạt động
giống nhau về bản chất, đều có mục đích, yêu cầu chung là xem xét, đánh giá một quá
trình, sự vật, hiện tợng (là đối tợng của kiểm tra và thanh tra) từ đó rút ra kết luận đúng,
sai để có biện pháp phát huy hoặc uốn nắn, chấn chỉnh. Song, chúng có những điểm
không trùng hợp nhau. Vậy chúng khác nhau ở điểm nào.
3. Phân biệt hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra và với hoạt động
kểm soát, kiểm sát và giám sát.
3.1. Phân biệt hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra.
Thanh tra là hoạt động xem xét, kiểm tra của cơ quan Nhà nớc cấp trên hoặc
theo sự uỷ quyền của cơ quan Nhà nớc cấp trên đối với cơ quan Nhà nớc cấp dới (mang
tình trực thuộc) và là một bộ phận của hoạt động hành pháp. Còn kiểm tra là hoạt động
của cơ quan Nhà nớc, tổ chức xã hội (bao gồm cả kiểm tra nội bộ, tự kiểm tra) đối với
mục đích, nhiệm vụ đã đặt ra.
Việc phân biệt chỉ mang tính ớc lệ, xét quá trình và bản chất của hoạt động thanh
tra và kiểm tra thì hầu nh không có sự phân biệt hai khái niệm này. V.I.Lênin nhiều lần
nhấn mạnh trong các tác phẩm của Ngời cũng nh trong thực tiễn hoạt động của Đảng
cộng sản Bôn-sê-vích rằng, mục đích của kiểm tra và thanh tra là nhằm xây dựng khả
năng biết làm, biết thành thạo trong quản lý. Khi bàn đến sự thống nhất của hai hoạt
động, V.I.Lênin nói: phải cải tổ bộ dân uỷ thanh tra công nông để táng c ờng sự
kiểm tra từ phía quần chúng nhằm tiêu diệt cái thứ cỏ dại chủ nghĩa quan liêu.
Nh vậy, xét theo tính chất, mục đích của quản lý Nhà nớc, với t cách là chức
năng không thể thiếu đợc của ngời quản lý, thanh tra và kiểm tra có thể thiếu trong mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Trong một chừng mực nhất định, hai thuật ngữ kiểm tra (control) và thanh tra
(inspect) có sự phân biệt về mặt lịch sử. Trong quá trình phát triển của xã hội từ khi cha
có Nhà nớc đến khi xuất hiện Nhà nớc thì tác động của chúng đối với xã hội có khác
12
nhau về mức độ thực hiện quyền năng thanh tra và kiểm tra là những chức năng,
những mặt của quản lý nói chung, chúng liên hệ tác động lẫn nhau theo mức độ quyền
năng và trong mối tơng quan với quản lý Nhà nớc thì thanh tra giữ vai trò trực tiếp, bởi
chính trong quá trình thanh tra, u thế về tính quyền lực Nhà nớc đợc thể thiện rõ hơn so
với kiểm tra.
Còn về mặt lịch sử, thuật ngữ kiểm tra tồn tại trớc thanh tra, khi con ngời biết lao
động tức là tham gia quá trình sản xuất, phân phối của cải vật chất xã hội đòi hỏi phải
quản lý, nghĩa là đòi hỏi họ phải xem xét, đánh giá kết quả hoạt động cảu mình. Chính
trong hoạt động sản xuất, phân phối của cải vật chất xã hội quyết định sự cần thiết phải
có kiểm tra. Mặt khác nh ăng-ghen đã nói mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của
con ngời đều chứ đựng trong nó những yếu tố của kiểm tra và đối với con ngời tự
nhiên, mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra (theo nghĩa đơn sơ của từ NHâN DâN)
đợc xem xét nh là phơng thức hành động để thực hiện mục đích.
Sự ra đời của Nhà nớc tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt của giai cấp
thống trị đòi hỏi phải có những công cụ mang tính quyền lực để bảo vệ quyền lợi cảu
giai cấp thống trị. Từ đó, quản lý mang tính quyền lực Nhà nớc xuất hiệnv à là một
trong những đặc trng phân biệt Nhà nớc xuất hiện và là một trong những đặc trng phân
biệt Nhà nớc với các bộ lạc, thị tộc xa kia và các tổ chức xã hội hiện nay. Để thực hiện
quản lý Nhà nớc, giai cấp thống trị sử dụng các chức năng khác nhau, trong đó có chức
năng thanh tra nhằm tác động tới khách thể quản lý, lập lại trật tự và nâng cao hiệu quả
của quản lý.
Nh vậy, xét về mặt lịch sử, kiểm tra tồn tại xa xa, khi cha có Nhà nớc, còn thanh
tra xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nớc. Đơng nhiên, cùng với sự xuất hiện, tồn
tại, tiêu vong của Nhà nớc, chức năng thanh tra cũng nh NHà N C sẽ đ ợc xếp bên cạnh
chiếc sa kéo sợi và chiếc rìu đồng cổ, nhng kiểm tra (mang tính xã hội) vẫn tồn tại
cùng với chức năng quản lý đơn thuần chăm lo đến lợi ích cảu xã hội nh P.ăng-ghen
đã chỉ ra.
Thanh tra và kiểm tra giống nhau về bản chất, nhng theo cách hiểu khác nhau thì
chúgn khác nhau về phạm vi. Thanh tra bao hàm kiểm tra nếu theo nghĩa hẹp, nhng ng-
13
ợc lại, kiểm tra lại bao hàm thanh tra nếu theo nghĩa rộng. Nhng thanh tra luôn mang
tính Nhà nớc, còn kiểm tra có thể mang tính Nhà nớc hoặc phi Nhà nớc.
Việc tìm hiểu sâu sắc khái niệm thanh tra còn đòi hỏi phải điểm lại một số quan
điểm trong thực tiễn pháp lý hiện hành, cũng nh trong lịch sử nớc ta thông qua mô hình
tổ chức các cơ quan Nhà nớc và các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong sách báo pháp lý của ngành Thanh tra thì Thanh tra đợc hiểu là sự xem
xét, kiểm soát, kiểm tra thờng xuyên, định kỳ nhằm rút ra những nhận xét, kết luận cần
thiết để kiến nghị với các cơ quan Nhà nớc khắc phục những nhợc điểm, phát huy u
điểm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nớc.
Thời kỳ phong kiến (các triều đại Lý, Trần, Lê) có cơ quan gọi là Ngự sử đài
có nhiệm vụ giúp vua trong việc xem xét, trình tầu những công việc hệ trọng, có quyền
can gián vua và đối với những nghĩa sĩ trung thực, dám nói thẳng, nói thật mới đợc
phong hàm Gián nghị đại phu.
Từ hiến pháp 1946 với khái niệm Ban kiểm soát của Ban thờng vụ Nghị viện
để kiểm soát, phê bình Chính phủ đến sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban thanh tra đặc
biệt của chính phủ; việc ghi nhận trong Hiến pháp 1959 (điều 76), Hiến pháp 1980
(điều 107, 110), Hiến pháp 1992 (các điều 112, 115, 116, 124) và pháp lệnh THANH
TRA 1990 là quá trình đúc kết kinh nghiệm và hoàn chỉnh khái niệm thanh tra.
Hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm tra nhìn từ góc độ công tác t pháp cũng
có những điểm khác nhau.
Thanh tra và kiểm tra đều phục vụ công tác quản lý nhà nớc. Qua thanh tra, kiểm
tra, tìm ra những quy định của pháp luật đã không còn phù hợp với thực tế để kiến nghị
cơ quan nhà nớc có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung kịp thời; phát hiện ra những thiếu sót,
sai phạm của đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó có biện pháp kịp thời chấn chỉnh, xử lý.
Tuy nhiên, thanh tra và kiểm tra cũng có khác nhau sau:
Thứ nhất: Về cơ sở pháp lý: Nừu nh có sở pháp lý của hoạt động kiểm tra về một
lĩnh vực nào đó thì chủ yếu là các văn bản pháp luật mang tính nghiệp vụ, chuyên môn;
các văn bản quy định về công tác tổ chức và các văn bản liên quan., thì trong hoạt đông
thanh tra ngoài cơ sở pháp lý đó, còn chủ yếu dựa vào Luật khiếu nại, tố cáo; Pháp lệnh
14

Xem chi tiết: thanh tra Việt Nam


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét