* Thành phần vị trí 5 là thanh điệu bao trùm lên toàn bộ âm tiết. Có 6 thanh
điệu:
- Thanh ngang :Trên chữ không ghi dấu khi viết
- Thanh huyền
- Thanh sắc
-Thanh nặng
- Thanh hỏi
- Thanh ngã.
* Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm
* Thành phần ở vị trí 2 là do âm đệm, đó là nguyên âm trong chữ viết, đợc
thể hiện bằng chữ O chẳng hạn (Loan,); bằng chữ U (Xuân)
* Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm chính
là hạt nhân của âm tiết.
* Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối, do các phụ âm bán nguyên âm (i, y, u, o)
đảm nhiệm.
* Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận gọi là
phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí còn lại có thể có
hoặc không.
-Âm tiết tiếng việt có cấu trúc hai bậc : Bậc thứ nhất bao gồm những thành tố
của thành phần vần.
Âm tiết
Bậc 1 : Thanh điệu Âm đầu phần vần
Bậc 2 : Âm đệm Âm chính Âm cuối
* Thanh điệu là sự thay đổi độ cao những âm tiết : la, lá, lã đối lập với là, lả,
lạ. Các âm tiết trớc đều đợc phát âm với cao độ cao, các âm tiết sau phát âm với
cao độ thấp.
* Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì những
âm tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ cao, trong thời
gian âm tiết la đợc phát âm với cao độ hoàn toàn bằng phẳng; còn lã với đờng
nét biến thiên, cao độ không bằng phẳng, âm điệu là những đờng nét biến thiên về
cao độ.
* Nguyên âm trong Tiếng Việt đợc coi là âm chính, nguyên âm là khi nói âm
vị phát ra luồng hơi đi tự do không có gì cản trở.
VD : Khi phát âm a, á â hơi thoát ra tự do không bị cản ở chỗ nào cho nên
 cũng là nguyên âm. Xét về mặt cấu tạo ngời ta phân chia phân biệt nguyên
âm đơn và nguyên âm đôi.
+ Nguyên âm đôi là âm vị gồm 2 nguyên âm ghép lại liền nhau. Khi phát âm
thì đọc nhanh, đọc lớt từ âm này sang âm kia đầu mạnh sau yếu hơn, do đó âm sắc
chủ yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định. Có 3 nguyên âm đôi đó
là : uô, ơ, ie. Xét về độ dài, cần phân biệt nguyên âm ngắn và nguyên âm dài,
nguyên âm ngắn khi phát ra không thể kéo dài, nếu kéo dài có thể ảnh hởng đến
nghĩa.
+ Phụ âm : Các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết Tiếng Việt
bao giờ cũng là các phụ âm. Phụ âm là âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra bị cản ở
chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm có loại bị cản ở môi; có loại bị cản ở
răng, có loại bị cản ở lỡi; có loại bị cản ở thanh hầu. Về phơng thức phát âm ngời
ta chia phụ âm thành :
- Phụ âm tắc : Hơi bị cản lại sau thoát ra đờng miệng vào mũi : b, d, t, s c, k,
m,r, p, ng.
- Phụ âm sát : Hơi đi qua kẽ hở miệng : p, v, s, z, l, x, y, h
- Phụ âm vang : Hơi thoát ra đầu lỡi và bên lỡi : m, n, nh.
- Phụ âm ồn : Hơi thoát ra đằng miệng có tiếng ồn : b, d, t, c, k, p, f, v, x, z,
y, h.
- Phụ âm hữu thanh, vô danh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây thanh có
rung hay không rung ngời ta chia ra :
+ Phụ âm hữu thanh : Dây thanh rung (d, v, y)
+ Phụ âm vô thanh : Dây thanh không rung (t, k, c, b, s, x, h)
- Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành :
+/ Phụ âm môi : p, b, m, f, v
+/ Phụ âm lỡi : d, t, s, z, l, n
+/ Phụ âm hầu : h
Trong các âm lỡi sự đối lập nhau giữa đầu lỡi hẹp : r, t, s, z, l, n; đầu lỡi
quật : đ, a.
Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với nhau
thành một bộ phận gọi là phần vần.
Ví dụ : Âm tiết Loan :
O là âm đệm
A là âm chính
N là âm cuối
Oan là phần vần.
II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo
Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể
phân chia đợc nữa, lúc đầu trẻ hình thành thính giác. Âm thanh tức là sự phân biệt
các âm của ngôn ngữ còn phát âm chúng sẽ học sau. Sự phát âm đúng có liên quan
chặt chẽ với sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ.
Khả năng phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm. ở
tuổi mẫu giáo những điều kiện này đã đạt đợc mức tơng đối ổn định cho nên trẻ đã
có thể phát âm đợc hầu hết các âm vị. Tuy nhiên một số trẻ vẫn còn mắc một số
lỗi về phát âm.
1. Lỗi về thanh điệu :
Trong số các thanh điệu tiếng Việt, thanh hỏi và thanh ngã là hai thanh có
cấu tạo phức tạp. Việc thể hiện thanh ngã với âm điệu gãy, ở giữa là cách phát âm
khó đối với trẻ. Trẻ thay thế bằng cách phát âm đơn giản hơn tức là với âm điệu
không gãy ở giữa. Vì vậy dễ đồng nhất với âm điệu của thanh sắc.
VD : Phát âm ngã thành ngá hoặc giã thành giá.
- Sự chuyển đổi hớng đi của đờng nét âm điệu thanh hỏi không diễn ra đột
ngột nh thanh ngã, quá trình phát âm kéo dài trở thành khó đối với trẻ nhỏ có hơi
thở ngắn.
- Khi phát âm, trẻ thay thế âm điệu gãy bằng âm điệu không gãy, điều này
làm cho thanh hỏi ở trẻ gần nh đồng nhất với thanh nặng.
- Phát âm hỏi thành họi hoặc phát âm hổ thành hộ. Đến hết tuổi mẫu
giáo lỗi sai về hai thanh này sẽ đợc khắc phục hầu nh hoàn toàn.
2. Lỗi về âm chính :
Lỗi về âm chính tập trung vào việc trẻ phát âm nguyên âm đôi này thành
nguyên âm đôi kia.
Ví dụ : Trẻ phát âm con hơu thành con hiêu, con Ngỗng thành Con
Ngống
Trẻ phát âm sai là do tập quán của địa phơng hoặc do nghe cha chính xác,
các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi làm cho cấu tạo của âm tiết phức tạp
hơn, phát âm khó khăn hơn.
3. Lỗi phụ âm đầu :
Trẻ thờng hay nói lẫn lộn : l , n
Ví dụ : Con lợn thành con Nợn; Cái nồi thành cái lồi.
- Lỗi lẫn tr thành ch ; s - x; r - d
Gà trống phát âm thành gà chống.
Hoa sen thành Hoa xen
Con rùa thành Con dùa.
- Lỗi lẫn r thành d; gi thành d : cái rổ thành cái dổ; cô giáo thành cô dáo.
Một số trẻ khi phát âm phụ âm P trẻ lẫn sang phụ âm b
VD : Đèn pin thành đèn bin
4. Lỗi về âm đệm :
Âm đệm chỉ đợc đọc lớt qua nên trẻ khó ghi nhận những âm chính vì thế âm
đệm thờng bị bỏ qua.
VD : Trẻ phát âm quả quất thành quả cất; loắt choắt thành lắt chắt
5. Lỗi về âm cuối :
Trong phụ âm đứng làm âm cuối thì những cặp ch và nh trẻ phát âm thành t,
n.
VD : Anh Tú thành ăn Tú, cây xanh thành cây xăn, vòng quanh thành vòng
quăn
III Nội dung và phơng pháp rèn luyện phát âm.
Đối với trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo dễ hình thành sự phát âm đúng hơn khi
đã trởng thành. Điều quan trọng là cô giáo mẫu giáo đều cần phải nói đúng để làm
mẫu cho trẻ.
Sự phát âm của trẻ phụ thuộc vào bộ máy phát âm, để dạy trẻ phát âm đúng cần
thờng xuyên luyện tập một số cơ quan phát âm nh : môi, lỡi, răng, sự phát triển
linh hoạt của hàm. Cần giúp trẻ biết điều khiển nhịp nhàng các cử động của bộ
máy phát âm. Sự phát âm rõ ràng các âm, các từ phụ thuộc vào sự chính xác và lực
của các cử động của bộ máy phát âm. Rất nhiều trẻ nói không rõ, từ này trộn lẫn
với từ kia thành một tập hợp âm khó hiểu. Nguyên nhân là cử động chậm chạp của
môi và lỡi, tính linh hoạt của hàm còn yếu do đó miệng của trẻ há không to và các
nguyên âm phát ra không đúng, sự phát âm không rõ ràng, các từ phụ thuộc vào sự
phát âm của các nguyên âm có đúng không và sau đó phụ thuộc vào sự điều hoà
các hoạt động của bộ máy phát âm khi xác lập các phụ âm. Tập luyện cơ của bộ
máy phát âm là trọng tâm và cần thiết nh tập thể dục để phát triển cơ thể ở mẫu
giáo, không nên xem việc dạy phát âm chỉ dành cho các cháu có tật mà làm cho
tất cả các cháu.
Giờ dạy phát âm phải đợc tiến hành thờng xuyên, có hệ thống, ở nhóm nhỏ h-
ớng dẫn hàng ngày; còn ở nhóm lớn tối thiểu 3 - 4 lần trong 1 tuần. Những bài
học luyện bộ máy phát âm ở trờng mẫu giáo thờng mang tính chất trò chơi nh bắt
chớc tiếng kêu của các loài vật nh : cạc cạc (vịt); gâu gâu (chó); meo meo (mèo);
ộp ộp (ếch).
Trò chơi : Con gì kêu đấy : Cô giáo treo trên bảng tranh vẽ những con vật,
đồ vật và cho cháu đoán hoặc bày lên bàn những đồ chơi là con vật hay đồ vật có
tiếng kêu mà các cháu sẽ đố nhau, cô bảo các cháu nhìn lên tranh và lên đồ chơi
rồi gọi tên chúng sau đó cô bắt chớc tiếng kêu của từng con vật hoặc đồ chơi và
yêu cầu trẻ nói đúng tên con vật và đồ vật đó.
VD : Cô nói tu tu, xình xịch các cháu phải nói tàu hoả; cô nói vịt vịt thì trẻ
nói vịt con; chiếp chiếp thì nói gà con, cô nói ò ó o thì nói gà trống gáy Hoặc cô
có thể cho một cháu ra ngoài lớp, sau đó cô và cháu ở trong lớp chọn một con vật
cất đi, cho cháu đó vào thì cô và cháu ở trong lớp bắt chớc tiếng kêu của con vật
đó hoặc tiếng động cơ của đồ chơi, sau đó cô bảo cháu đó nói tên con vật tên đồ
chơi.
Trong mẫu giáo lớn để hoàn chỉnh cách phát âm thờng sử dụng bài tập, đặc
biệt học thuộc lòng các bài thơ, những câu nói nhanh là một hay nhiều câu khó
phát âm mà trong đó một âm có thể đợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đầu tiên cô
đọc mẫu, cô chọn những câu nói nhanh cần thiết trong một thời hạn dài, nếu trong
một tháng trẻ học thuộc 1 trong 2 câu thì trong 1 năm cần chọn 10 -15 câu có mức
độ phức tạp khác nhau. Cho trẻ làm quen với những câu dễ trớc, câu khó sau. Trẻ
sử dụng câu nói nhanh trong giờ học, trong khi chơi và các giờ hoạt động ngoài
trời.
Những câu có thể dùng cho các cháu nói nhanh nh :
Hoa sen, hoa súng
Hoa súng, hoa sen
Buổi sáng mặt trời mọc
Mặt trời mọc buổi sáng
Nồi đồng nấu ốc
Nồi đất nấu ếch
Mục đích của việc sử dụng những câu nói nhanh là tập luyện bộ máy phát
âm. Trớc khi cho trẻ tập nói cô giáo phải nói mẫu, cô đọc chậm rõ ràng sau đó nói
nhanh dần rồi cho trẻ tự nói thầm một mình để nhắc lại câu nói nhanh, lúc đầu cô
gọi các cháu có trí nhớ tốt và có cách phát âm đúng. Đầu tiên cho trẻ nói chậm rõ
ràng sau đó nói nhanh dần cô gọi tiếp các cháu còn lại nhắc lại câu nói nhanh.
Khi hớng dẫn tập nói nhanh cô giáo phải tiến hành trình tự nh trên không vội
vàng, hấp tấp có thể làm cho trẻ mắc tật nói lắp, nói nhịu.
Để luyện tập cách phát âm cho cháu cô giáo có thể đọc cho các cháu nghe
những bài thơ , những đoạn văn trong đó có những từ mà các cháu thờng nói sai,
cho các cháu đọc lại những bài thơ những đoạn văn này và rèn luyện cách phát âm
cho các cháu.
VD : Để luyện phát âm l và n cô giáo có thể dùng các bài thơ sau :
Mồng một lỡi trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mồng bốn lỡi liềm
Mồng năm liềm giật
Mời rằm trăng náu
Mời sáu trăng treo
Tập tầm vông
Tay nào không
Tay nào có
Tập tầm vó
Tay nào có
Tay nào không
Khi chữa lỗi phát âm cho trẻ không nên nhắc nhiều đến lỗi, cần hớng sự tập
trung của trẻ vào phát âm cho đúng. Bộ máy phát âm của trẻ đợc hoàn chỉnh vào
những năm đầu của tuổi mẫu giáo (4 -5 tuổi) cho nên ở mẫu giáo bé và mẫu giáo
nhỡ cùng một lúc phải củng cố những âm khó và xoá bỏ lỗi nói ngọng do đặc
điểm lứa tuổi gây ra.
* Chú ý : Cha có thể phân tích với các cháu rằng muốn phát đúng thì bộ máy
phát âm phải nh thế nào? Phải cho các cháu sử dụng nhiều lần âm vị định luyện,
tác dụng âm học sẽ thúc đẩy hình thành những tác động cấu âm tơng ứng.
Nhìn chung trẻ mẫu giáo lớn tiếp thu nhậy bén cách phát âm của những ngời
xung quanh, trẻ chuyển giọng rất nhanh. Khi chuyển chỗ ở từ địa phơng này sang
địa phơng khác, tác dụng của môi trờng xung quanh rất quan trọng. Vì vậy phải
tạo một môi trờng với cách phát âm đúng quy cách. Trong các gia đình, cha mẹ và
những ngời lớn tuổi chú ý đến cách phát âm của mình; ở trờng mẫu giáo cô phải
phát âm đúng làm mẫu cho các cháu học nói, ngôn ngữ của cô giáo trong việc
giáo dục trẻ có thể gọi là ngôn ngữ hoàn chỉnh, khi nói chuyện với nhau ngời ta ít
chú ý đến sự chính xác của các âm và thờng có lỗi về phát âm đó là ngôn ngữ cha
hoàn chỉnh. Còn trong trờng mẫu giáo cô phải sử dụng ngôn ngữ hoàn chỉnh, ngôn
ngữ hoàn chỉnh có đặc điểm khi nói các âm nghe rõ ràng chính xác và âm điệu
chậm rãi. Trong đời sống hàng ngày thỉnh thoảng cô có thể sử dụng ngôn ngữ cha
hoàn chỉnh. Cô mẫu giáo nên tổ chức cho các cháu nghe đài phát thanh , xem vô
tuyến, nghe băng, nghe đĩa. Cô hớng trẻ chú ý nghe các phát thanh viên phát âm
rõ ràng, chính xác. Cô giáo cần bỏ thời gian công sức học tập để đạt tới ngôn ngữ
văn học.
Chơng II
Khảo sát thực trạng khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo lớn
I. Cơ sở tiến hành khảo sát
Khảo sát thực trạng khả năng phát âm của 30 cháu ở trờng Mầm non Dị Nậu
- Tam Nông - Phú Thọ. Trờng thuộc một xã vùng nông thôn miền núi. Các cháu
chủ yếu là con em nông thôn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy
và học còn thiếu thốn. Các lớp học xây dựng không đúng tiêu chuẩn. Hiện nay nhà
trờng có 3 lớp 5 tuổi đang tiến hành chơng trình thực nghiệm về Đổi mới hình
thức tổ chức giáo dục trẻ trong trơng mầm non cho nên các cháu có rất nhiều
thuận lợi trong học tập.
- Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên không đồng đều. Tổng số giáo
viên của trờng là 6 ngời.
1 Hiệu trởng : Cao đẳng
1 hiệu phó : Trung cấp (trực tiếp giảng dạy)
4 giáo viên trực tiếp giảng dạy.
- Trang thiết bị và đồ dùng dạy học : Còn thiếu thốn nhiều. Hàng năm nhà tr-
ờng thờng xuyên mua thêm đồ dùng, đồ chơi mới và phát động thi đua làm đồ
dùng, đồ chơi đồng thời huy động sự đóng góp về phía cha mẹ học sinh để làm
phong phú thêm đồ chơi cho các cháu.
Các giáo viên đều yêu nghề mến trẻ, nắm chắc các phơng pháp chăm sóc
nuôi dạy trẻ trong trờng mầm non.
Nhờ những yếu tố trên trẻ học ở trong trờng có đủ điều kiện phát triển toàn
diện đồng thời việc rèn khả năng phát âm cho trẻ cũng có thuận lợi hơn.
I. Khách thể nghiên cứu :
Chọn 30 cháu mẫu giáo lớn của 3 lớp 5 tuổi tại trờng mầm non Dị Nậu -
Tam Nông - Phú Thọ.
Dựa vào kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo
lớn tôi đánh giá xếp loại khả năng phát âm đúng của trẻ theo 4 loại : tốt, khá, trung
bình, yếu :
- Cháu không mắc lỗi : Tốt
- Cháu mắc từ 1 - 3 lỗi : khá
- Cháu mắc từ 4 - 6 lỗi : trung bình
- Cháu mắc từ 7 lỗi trở lên : Yếu
II. Cách tiến hành khảo sát :
Tôi đã sử dụng các biện pháp khảo sát sau :
- Biện pháp thứ nhất : trò chuyện với trẻ để biết khả năng phát âm của trẻ.
- Biện pháp thứ hai : Tôi gọi trẻ lên đọc các bài ca dao, đồng dao mà cháu
thích để nghe phát âm của trẻ.
- Biện pháp thứ 3 : Tôi đa tranh các con vật, đồ vật, đồ chơi, các loại hoa, loại
quả cho trẻ xem để nghe khả năng phát âm của trẻ.
Biện pháp thứ 4 : Gọi trẻ lên đọc các bài thơ để nghe phát âm của trẻ.
Từ những kết quả trên tôi đã lập bảng khảo sát thực trạng khả năng phát âm
đúng của trẻ nh sau :
Bảng
III . Kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng
lứa tuổi mẫu giáo lớn
Qua khảo sát thực trạng cho thấy kết quả phát âm của trẻ mẫu giáo lớn ở 3
lớn 5 tuổi ở trờng mầm non Dị Nậu - Tam Nông - Phú Thọ thu đợc kết quả nh
sau :
1. Lớp 5 tuổi A
Loại trung bình : 7 cháu = 70%
Loại yếu : 3 cháu = 30%
2. Lớp 5 tuổi B
Loại khá : 02 cháu : 20 %
Loại trung bình : 5 cháu = 50%
Loại yếu : 03 cháu = 30%
3. Lớp 5 tuổi C
Loại tốt : Không
Loại khá : 01 cháu : 10 %
Loại trung bình : 4 cháu = 40%
Loại yếu : 05 cháu = 50%
Phân tích kết quả cho thấy khả năng phát âm của trẻ cũng tăng dần theo tháng
tuôỉ của cháu. Cháu nào sinh vào những tháng cuối năm thì khả năng phát âm hơi
yếu hơn các cháu sinh vào những tháng đầu năm.
Sau đây là một số cháu mắc lỗi nhiều với lý do cụ thể nh sau :
- Cháu Nguyễn Quang Minh sinh ngày 6/10/1998 bị mắc 09 lỗi, gia đình cháu
ở trang trại trong rừng, cả hai bố mẹ đều làm nghề buôn bán không có thời gian
quan tâm đến con caí dẫn đến khả năng phát âm của cháu kém.
cháu bị suy dinh dỡng hay ốm hay nghỉ học nên cháu còn mắc nhiều lỗi phát âm.
- Cháu Trần Minh Thắng lớp 5 tuổi C sinh ngày 15/12/1998 có bố mẹ đều
làm ruộng nên không có thời gian quan tâm để ý đến cháu. Gia đình cháu sống ở
xã Dị Nậu là nơi dân thờng phát âm sai lẫn lộn giữa n - l ; s - x; r - d nên cháu
cũng bị ảnh hởng, cháu mắc 10 lỗi trong đó có cả lỗi về thanh điệu.
- Cháu Hán Thị Hà lớp 5 tuổi C sinh ngày 12/10/1998 sức khoẻ của cháu yếu,
bị suy dinh dỡng độ 2, cháu ít giao tiếp với bạn bè và mọi ngời xung quanh nên
khả năng phát âm còn nhiều hạn chế, cháu mắc 9 lỗi phát âm.
Qua khảo sát thực trạng phát âm của trẻ thì ở độ tuổi mẫu giáo lớn các cháu
vẫn còn mắc lỗi về phụ âm , thanh điệu, phần vần. Trẻ phát âm khó, còn lẫn lộn
phụ âm và thanh điệu với một số phần vần phát âm khó và thanh điệu gãy.
Nguyên nhân chính là do bộ máy phát âm của trẻ nh môi, lỡi chuyển động cha đợc
linh hoạt nên dẫn đến sai sót trên; Do tiếng địa phơng hay nói ngọng (l, n) cho nên
các cháu cũng ảnh hởng phụ âm đó; Do một số gia đình các chaú làm nông nghiệp
không có điều kiện quan tâm đến sự phát âm của trẻ, không sửa sai cho trẻ; Do các
cháu nhút nhát ít giao tiếp nói năng với bạn bè, cô giáo. Khi cô giáo hỏi không
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét