Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014
130 Phát triển con người Việt Nam 1999 - 2004 Những thay đổi và xu hướng chủ yếu
viii
Báo cáo được soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Ban cố vấn liên cơ quan do Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ
Hoài Nam (Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) đứng đầu với các thành viên bao gồm Ông
Nguyễn Đức Kiên (Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội), Tiến sĩ Cao Viết Sinh
(Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến (Phó Tổng cục trưởng Tổng cục
Thống kê), Tiến sĩ Nguyễn Hải Hữu (Vụ trưởng Vụ Bảo trợ Xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội), Tiến sĩ Đặng Kim Sơn (Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp
nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Thiên (Phó
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam).
Nhóm soạn thảo báo cáo do Võ Trí Thành (Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương) và
Nguyễn Thắng (Trung tâm Phân tích và Dự báo) đồng phụ trách và gồm các thành viên là Lê Thúc
Dục, Nguyễn Thị Thanh Hà, Đặng Như Vân, Nguyễn Văn Tiền (Trung tâm Phân tích và Dự báo),
Nguyễn Mạnh Cường (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Phạm Lan Hương (Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương) với sự trợ giúp của Nguyễn Cao Đức, Lê Đặng Trung, Nguyễn Thị
Thu Phương (Trung tâm Phân tích và Dự báo) và Nguyễn Anh Dương (Việ
n Nghiên cứu Quản lý
Kinh tế Trung ương).
Ban biên tập báo cáo gồm Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Hoài Nam, Tiến sĩ Võ Trí Thành và Thạc sĩ
Nguyễn Văn Tiền.
Nhóm soạn thảo báo cáo đã được sự hỗ trợ tích cực từ các chuyên gia của Tổng cục Thống kê
bao gồm các ông Nguyễn Phong (Vụ trưởng Vụ Thống kê Xã hội Môi trường), Đồng Bá Hướng
(Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động), Trịnh Quang V
ượng (Phó vụ trưởng Vụ Hệ thống
Tài khoản Quốc gia) và một số chuyên viên của Tổng cục Thống kê.
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Nhóm soạn thảo và biên tập xin được gửi lời cảm ơn trân
trọng đến các chuyên gia thuộc Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc là Tiến sĩ Jonathan
Pincus, Chuyên gia kinh tế cao cấp, ông Nguyễn Tiến Phong, ông Đỗ Thanh Lâm, bà Nguyễn
Thanh Nga và các đồng nghiệp; Tiến sĩ Henrik Hansen (Trường Đại học Copenhagen, Đan Mạch).
Cũng xin được cảm ơn chân thành Tiến sĩ Vũ Quốc Huy (Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát
triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội), trưởng nhóm soạn thảo Báo cáo quốc gia lần thứ
nhất, đã có nhiều đóng góp cho Báo cáo quốc gia lần thứ hai. Nhóm soạn thảo cũng xin cám ơn sự
giúp đỡ của Nguyễn Thị Thu Hằng, Cao Thị Thuý, Nguyễn Thủy Chung, Nguyễ
n Thị Hải Oanh,
Hoàng Thanh Tú (Trung tâm Phân tích và Dự báo) và Chử Thị Hạnh (Viện Kinh tế Việt Nam).
Mặc dù đã rất cố gắng nhằm hướng tới một sản phẩm khoa học có chất lượng cao với định
hướng phân tích và tư vấn chính sách nhưng do trình độ còn có hạn nên Báo cáo chắc cũng không
thể tránh khỏi một số sai sót. Rất mong sự lượng thứ và góp ý của Quý độc giả.
Hà Nội, tháng 12 năm 2006
ĐỖ HOÀI NAM
Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
ix
MỤC LỤC
1 Giới thiệu 1
2 Các chỉ số HDI, HPI và GDI ở cấp quốc gia 3
3 Các chỉ số HDI, HPI và GDI ở cấp vùng và cấp tỉnh 10
4 Phát triển con người ở Việt Nam: vấn đề và thách thức 25
Tài liệu tham khảo 29
Phụ lục 31
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tốc độ tăng HDI và đóng góp theo chỉ số cấu thành 3
Bảng 2.2: Mức giảm chỉ số HPI và đóng góp theo chỉ số cấu thành 4
Bảng 2.3: HDI của Việt Nam so với những nước khác trong khu vực 5
Bảng 2.4: So sánh HDI của Việt Nam với các nước khác trong khu vực năm 2003 6
Bảng 2.5: HPI của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực 7
Bảng 2.6: GDI của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực 8
Bảng 3.1: Thay đổi HDI, HPI và GDI theo khu vực trong giai đoạn 1999-2004 11
Bảng 3.2: Thống kê mô tả số liệu HDI cấp tỉnh năm 1999 và 2004 12
Bảng 3.3: Một số tỉnh có sự thay đổi đáng kể nhất trong bảng xếp hạng theo HDI 13
Bảng 3.4: Thống kê mô tả giá trị chỉ số HPI cấp tỉnh trong năm 1999 và 2004 15
Bảng 3.5: Số liệu mô tả về các giá trị GDI cấp tỉnh 18
Bảng 3.6: Một số thay đổi chênh lệch thu nhập theo giới đáng chú ý, 1999-2004 19
x
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Chỉ số HDI cấp vùng trong giai đoạn 1999-2004 10
Hình 3.2: Tương quan tăng trưởng GDP bình quân đầu người (% năm) và HDI giữa các tỉnh
năm 2004 14
Hình 3.3: Chênh lệch xếp hạng chỉ số HDI và GDP ở một số tỉnh 14
Hình 3.4: Tương quan GDP bình quân đầu người (USD PPP) và tỷ lệ nghèo lương thực 16
Hình 3.5: Mối liên hệ giữa mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người (quy theo năm)
và thay đổi chỉ số HPI theo tỉnh, 1999-2004 17
Hình 3.6: Tương quan giữa GDP bình quân đầu người và chênh lệch tỷ lệ đi học năm 2004 20
DANH MỤC CÁC HỘP
Hộp 4.1: Những mục tiêu chủ yếu trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2006-2010 27
xi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực thương mại tự do ASEAN
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BHYT Bảo hiểm y tế
BYT Bộ Y tế
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐTLĐVL Điều tra lao động việc làm
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDI Chỉ số phát triển giới
GDP Tổng sản phẩm trong nước
HCFP Quỹ dự phòng y tế cho người nghèo
HDI Chỉ số phát triển con người
HPI Chỉ số nghèo khổ tổng hợp
KTPTKTXH Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
LHQVN Liên hợp quốc ở Việt Nam
MDG Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
PPP Sức mua tương đương
QH Quốc hội
TCTK Tổng cục Thống kê
UNDP Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc
xii
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VDG Mục tiêu Phát triển Việt Nam
VHLSS Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam
VKHXHVN Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
VLSS Điều tra mức sống dân cư Việt Nam
VNCI Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
1
1 Giới thiệu
Trọng tâm của quá trình phát triển đang chuyển từ tăng trưởng kinh tế sang mục tiêu vì con
người. Hàng thế kỷ trước đây, trước nạn đói nghèo nghiêm trọng, thế giới đã phải tập trung thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế với tính cách là công cụ cải thiện mức tiêu dùng của người dân và xoá đói
giảm nghèo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cũng được xem là một tiền đề tốt cho việc huy
động
nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để tiếp tục phát triển đất nước và nâng cao đời sống
người dân.
Tuy nhiên, do quá tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nên ở một chừng mực nào đó, các
chính sách phát triển đã bỏ qua hoặc còn đánh giá thấp vai trò của con người. Con người thường chỉ
được nhìn nhận như một nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế hơn là mục tiêu phát triể
n thật sự của
tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, mặc dù rất cần thiết, tăng trưởng kinh tế lại không phải là điều
kiện đủ cho sự phát triển toàn diện, vì hai lý do. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chỉ nắm bắt hiệu ứng
thu nhập ở cấp độ tổng thể, trong khi bỏ qua nhiều khía cạnh xã hội của sự phát triển. Nếu không có
giải pháp hợp lý, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở cấp độ vi mô có thể trở nên nghiêm
trọng hơn. Một số lập luận có thể cho rằng tái phân phối là cần thiết nhằm bổ sung cho tăng trưởng
kinh tế; song ngay theo nghĩa đó, tái phân phối hiệu quả phải được đặt ngang bằng với tăng trưởng
kinh tế để tạo cơ hội công bằng cho mọi người cùng phát triển. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế có thể
đạt được nhờ khai thác quá mức các nguồn tài nguyên (không tái tạo được) như môi trường, tài
nguyên thiên nhiên,… mà người trả giá chính là các thế hệ tương lai.
Cách tiếp cận coi con người là trung tâm của sự phát triển mang tính toàn diện hơn, do đó,
cũng thích hợp hơn. Từ những năm 1990, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định và tư vấn chính
sách, các nhà thực thi chính sách đã có nhận thức tốt hơn và đồng thuận cao hơn về tầm quan trọng
của sự phát triển con người. Như được định nghĩa trong Báo cáo phát triển con người toàn cầu đầu
tiên của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) (1990, tr.1), phát triển con người là
“quá trình mở rộng sự lựa chọn cho con người. Điều quan trọng nhất của phạm vi lựa chọn rộng
lớn đó là để con người sống một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được giáo dục và được tiếp cận
đến các nguồn lực cần thiết cho một mức sống cao”. Xét theo năng lực, phát triển con người có thể
định nghĩa là “quá trình mở rộng khả năng của con người, tập hợp những lựa chọn sẵn có cho con
người, và cuối cùng là quyền tự do con người có được để xác định hạnh phúc của mình” (Ngân
hàng Thế giới, 2000, tr.60).
2
Được công bố lần đầu tiên vào năm 2001, Báo cáo quốc gia phát triển con người Việt Nam đã
có những đánh giá tương đối toàn diện về sự phát triển con người Việt Nam trong hai giai đoạn -
trước Đổi mới và từ khi tiến hành Đổi mới đến nay - nhằm phân tích tác động của quá trình cải cách
đối với cuộc sống của người dân Việt Nam trong những năm 1990. Có thể nói, phát triển con người
luôn được xem là trọng tâm trong chính sách của Việt Nam, đặc biệt là trong các chính sách về giáo
dục và y tế. Trước năm 1986, do hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nền kinh tế Việt Nam trong một thời gian
dài cơ bản là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Sau đó tuy điều kiện đã thay đổi mà cơ chế
chậm được chuyển đổi nên nền kinh tế còn trì trệ, thiếu động lực, thiếu thông tin và có nhiều méo
mó trong phân bổ các nguồn lực. Kết quả là, sự lựa chọn của người dân về công ăn việc làm và thu
nhập bị hạn chế, trong khi quyền tự chủ và sáng tạo của người dân lại không được khuyến khích.
Trong bối cảnh đó, năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tiến hành Đổi mới – công cuộc
đổi mới toàn diện nền kinh tế hướng tới một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như đã nêu trong Báo cáo quốc gia phát triển con người Việt Nam 2001, Đổi mới đã đem lại những
thành tựu kinh tế - xã hội to lớn và đến lượt mình, những thành tựu đó lại càng tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển toàn diện đời sống của người dân.
Trong 5 năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước. Cải
cách trong nước cùng với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh. Môi trường kinh
doanh được cải thiện đáng kể, tạo cơ hội kinh doanh bình đẳng hơn cho các pháp nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế, thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục là động lực quan trọng
cho tăng trưởng. Tăng trưởng GDP khá cao, trung bình 7,5%/năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Tình trạng đói nghèo giảm đáng kể và là một trong những thành công nổi bật của Việt Nam trong
thực hiện cam kết Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs). Việc có thể gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) vào cuối năm 2006 phản ánh sự thừa nhận của quốc tế về những thành tựu cải
cách và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Cũng đã có không ít báo cáo về một số khía cạnh phát triển con người Việt Nam. Tuy vậy, một
số báo cáo dường như đã đánh giá quá cao những thành tựu mà Việt Nam đạt được hoặc chưa đề
cập đến những vấn đề còn tồn tại trong phát triển con người ở Việt Nam. Để có một cách nhìn đầy
đủ hơn, Báo cáo này sẽ trình bày những thay đổi và xu hướng chính trong phát triển con người Việt
Nam giai đoạ
n 1999-2004, qua so sánh Chỉ số Phát triển con người (HDI), Chỉ số nghèo khổ tổng
hợp (HPI), và Chỉ số phát triển giới (GDI) năm 2004 và năm 1999
1
. Báo cáo cũng so sánh các chỉ
số HDI, HPI, và GDI ở cả cấp quốc gia, cấp vùng và cấp tỉnh.
Ngoài lời giới thiệu, Báo cáo gồm ba phần. Phần 2 tập trung phân tích các chỉ số HDI, HPI và GDI
ở cấp quốc gia cùng một số so sánh với một số quốc gia khác ở Đông Nam Á và châu Á. Phần 3 xem
xét thành tựu và vấn đề trong phát triển con người ở cấp vùng và cấp tỉnh qua nhiều tiêu chí khác nhau,
và với một số quan sát về mối quan hệ giữa các ch
ỉ số. Cuối cùng, Phần 4 tóm tắt lại những kết quả
chính và xác định những vấn đề lớn cần lý giải trong Báo cáo quốc gia phát triển con người Việt Nam
2006. Phần này cũng đề cập những hạn chế về số liệu và cách thức phân tích.
1. Báo cáo quốc gia về phát triển con người của Việt Nam năm 2001 sử dụng số liệu năm 1999. Số liệu về phát
triển con người Việt Nam năm 2004 là bộ số liệu cập nhật nhất có được.
3
2 Các chỉ số HDI, HPI và GDI ở cấp quốc gia
Mức độ phát triển con người Việt Nam, phản ánh qua chỉ số HDI, đã được cải thiện trong giai
đoạn 1999-2004; HDI đã tăng 6,1%, từ mức dưới 0,69 năm 1999 lên khoảng 0,73 vào năm 2004
(Bảng 2.1). Như vậy, sự phát triển con người Việt Nam đã có một bước tiến đáng kể. Đáng lưu ý là
mức tăng HDI là kết quả của sự gia tăng ở tất cả chỉ số cấu thành – GDP bình quân đầu người (tính
theo USD PPP)
1
, tuổi thọ và trình độ giáo dục – qua đó phản ánh nỗ lực của Việt Nam nhằm phát
triển toàn diện cuộc sống của người dân. Chỉ số GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng
nhanh nhất, hơn 19%, và đóng góp 4,3 điểm phần trăm, hay 70,5%, vào tốc độ tăng HDI. Trong khi
đó, các chỉ số tuổi thọ và giáo dục tăng chậm hơn, xét theo cả giá trị tuyệt đối và tương đối (Bảng
2.1). Kết quả là các chỉ số này chỉ đóng góp tương ứng 0,82 và 0,97 điểm phần trăm, hay 13,5% và
16,0% vào tốc độ tăng HDI, nhỏ hơn nhiều so với đóng góp của chỉ số GDP bình quân đầu người.
Kết quả về đóng góp của giáo dục dường như không gây bất ngờ, nếu xét về thực chất và mối quan
ngại của xã hội trong những năm qua về các chương trình cải cách và chất lượng dạy và học của
ngành giáo dục – đào tạo.
Bảng 2.1: Tốc độ tăng HDI
2
và đóng góp theo chỉ số cấu thành
1999 2004 Tốc độ tăng
3
(%) Đóng góp (điểm %) Đóng góp (%)
GDP 0,467 0,556 19,02 4,30 70,54
Tuổi thọ 0,765 0,782 2,22 0,82 13,49
Giáo dục 0,835 0,855 2,41 0,97 15,97
HDI 0,689 0,731 6,10
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK, 1999), TCTK (2004a), TCTK (2004b) và tính toán
của TCTK.
1. GDP bình quân đầu người trong Báo cáo được tính theo sức mua tương đương bằng USD (USD PPP), trừ khi
được nêu cụ thể.
2. Không tính theo năm.
3. Không tính theo năm.
4
Hơn nữa, Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết tiềm năng, nếu xét về thu nhập bình quân đầu
người. Mặc dù có mức tăng trưởng ấn tượng, chỉ số GDP bình quân đầu người năm 2004 vẫn bị coi
là dưới mức trung bình; nghĩa là thấp hơn 0,6. Ngược lại, các chỉ số về tuổi thọ và giáo dục lại
tương đối cao. Tuy có thu nhập thấp, Việt Nam đã quyết tâm thúc đẩy và phổ cập giáo dục. Nhờ có
quan điểm này cùng việc thực hiện nhiều biện pháp chính sách của Đảng và Chính phủ, người dân
đã có thể tiếp cận giáo dục dễ dàng hơn. Tăng trưởng GDP tạo điều kiện tăng đầu tư xã hội vào giáo
dục chỉ bổ sung thêm cho thành công này. Nhìn chung, xét theo giá trị tuyệt đối chỉ số phát triển
con người Việt Nam, giáo dục vẫn có đóng góp đáng kể, đồng thời còn rất nhiều vấn đề thực sự cần
xử lý.
Tương tự, tất cả các chỉ số cấu thành của HPI đã được cải thiện trong giai đoạn 1999-2004,
mặc dù với mức độ khác nhau (Bảng 2.2). Tỷ lệ bần cùng về mặt vật chất giảm mạnh nhất, khoảng
8,5 điểm phần trăm xuống còn 21,3 vào năm 2004. Có được điều này là do mức giảm mạnh ở tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng và tỷ lệ người không tiếp cận được nước sạch, lần lượt vào
khoảng 10 và 7 điểm phần trăm. Trong khi đó, mức cải thiện về tỷ lệ người không kỳ vọng sống
đến 40 tuổi và tỷ lệ người lớn không biết chữ khá khiêm tốn, tương ứng khoảng 3,4 và 1,9 điểm
phần trăm. Kết quả là mức độ nghèo khổ ở Việt Nam, phản ánh qua chỉ số HPI đã giảm, từ 21,1
năm 1999 xuống còn 15,1 năm 2004. Trên thực tế, giảm nghèo là lĩnh vực thành công nhất của Việt
Nam trong thực hiện cam kết MDGs (Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2005).
Bảng 2.2: Mức giảm chỉ số HPI và đóng góp theo chỉ số cấu thành
1999 2004 Giảm
1
(%) Đóng góp (điểm %)
2
Đóng góp (%)
P1
3
9,7 6,3 -35,1 -1,1 0,04
P2
4
9,7 7,8 -19,6 -0,6 0,02
P3
5
29,8 21,3 -28,7 -26,9 0,94
HPI 21,1 15,1 -28,6
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (TTKHXHNVQG) (2001),
TCTK (1999) và TCTK (2004b).
Việt Nam cũng đạt được một số tiến bộ về phát triển giới. Năm 2004, chỉ số phát triển giới
(GDI) tương đối cao, đạt khoảng 0,73. Các chỉ số cấu thành của GDI chênh lệch không đáng kể. Cụ
thể, trong khi chỉ số bình đẳng phân phối thu nhập ở mức gần 0,74, các chỉ số bình đẳng giáo dục và
bình đẳng tuổi thọ ở mức khoảng 0,72. Tuy nhiên, cầ
n lưu ý là chỉ số phát triển giới vẫn chưa tính
1. Tốc độ tăng trưởng ở đây không được tính theo năm.
2. Do công thức HPI, đóng góp của nhân tố X xấp xỉ bằng
X
HPI
X
∆*
))1999((*3
*100
3
2
3. Phần trăm số người không kỳ vọng sống đến 40 tuổi.
4. Tỷ lệ người lớn không biết chữ.
5. Bần cùng vật chất (Trung bình của tỷ lệ người không tiếp cận được nước sạch và tỷ lệ trẻ em có cân nhẹ hơn so
với độ tuổi).
5
đến một số khía cạnh khác. Chẳng hạn, trong năm 2004, tỷ lệ người lớn không biết chữ của nam là
5,4%, trong khi của nữ là 10,2%. Bên cạnh đó, việc trao quyền cho phụ nữ cũng còn hạn chế. Tỷ lệ
nữ trong Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khóa 1999 - 2004 trung bình chỉ vào khoảng 21,1%. Nữ giới
mới chiếm 27,3% tổng số đại biểu Quốc hội khóa XI (2002-2007).
Số liệu của UNDP cũng cho thấy những kết quả tương tự về cải thiện HDI và HPI ở Việt Nam
(Bảng 2.3 và Bảng 2.4). Tuy nhiên, trong giai đoạn 1999-2003, những tiến bộ của Việt Nam dường
như không đáng kể so với những nước khác trong khu vực
1
. Thứ tự xếp hạng HDI trong khu vực rất
ít thay đổi. Ở Đông Nam Á, năm 2003 chỉ số HDI của Việt Nam chỉ cao hơn những nước như
Inđônêxia, Mianma, Campuchia và Lào, trong khi thấp hơn hẳn so với Philippin, Thái Lan,
Malaixia, Brunây và Xingapo. So với những nước châu Á khác, xét về phát triển con người, Việt
Nam phải rất lâu mới đuổi kịp Nhật Bản và Hàn Quốc trong khi lại xếp cao hơn Ấn Độ. Trung
Quốc có chỉ số HDI cao hơn Việt Nam. Mặt khác, tốc độ tăng HDI của Việt Nam trong giai đoạn
1999-2003 cũng không ấn tượng vì thấp hơn Lào, Mianma, và Campuchia - những nước có xếp
hạng HDI thấp hơn. Xét trên khía cạnh này, Việt Nam cũng thể hiện sự thua kém Trung Quốc và
Ấn Độ (Bảng 2.3).
Bảng 2.3: HDI của Việt Nam so với những nước khác trong khu vực
1999 2000 2001 2002 2003
% thay đổi
(1999-2003)
Việt Nam 0,682 (101) 0,688 (109) 0,688 (109) 0,691 (112) 0,704 (108) 3,22
Các nước ASEAN
Xingapo 0,876 (26) 0,885 (25) 0,884 (28) 0,902 (25) 0,907 (25) 3,53
Brunây 0,857 (32) 0,856 (32) 0,872 (31) 0,867 (33) 0,866 (33) 1,05
Malaixia 0,774 (56) 0,782 (59) 0,790 (58) 0,793 (59) 0,796 (61) 2,84
Thái Lan 0,757 (66) 0,762 (70) 0,768 (74) 0,768 (76) 0,778 (73) 2,77
Philíppin 0,749 (70) 0,754 (77) 0,751 (85) 0,753 (83) 0,758 (84) 1,20
Inđônêxia 0,677 (102) 0,684 (110) 0,682 (112) 0,692 (111) 0,697 (110) 2,95
Mianma 0,551 (118) 0,552 (127) 0,549 (131) 0,551 (132) 0,578 (129) 4,90
Campuchia 0,541 (121) 0,543 (130) 0,556 (130) 0,568 (130) 0,571 (130) 5,55
Lào 0,476 (131) 0,485 (143) 0,525 (135) 0,534 (135) 0,545 (133) 14,50
Những nước châu Á khác
Nhật Bản 0,928 (9) 0,933 (9) 0,932 (9) 0,938 (9) 0,943 (11) 1,62
Hàn Quốc 0,875 (27) 0,882 (27) 0,879 (30) 0,888 (28) 0,901 (28) 2,97
Trung Quốc 0,718 (87) 0,726 (96) 0,721 (104) 0,745 (94) 0,755 (85) 5,15
Ấn Độ 0,571 (115) 0,577 (124) 0,590 (127) 0,595 (127) 0,602 (127) 5,43
Nguồn: UNDP (2001-2005).
1. Những so sánh này sử dụng dữ liệu HDI từ năm 1999 đến 2003 của UNDP, có thể không thật nhất quán với số
liệu tính toán của Tổng cục Thống kê. Khu vực ở đây bao gốm các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và
Ấn Độ.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét