Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

447 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bình Thuận

5
đi vay tiền tệø, từ đây họ mới bắt đầu tạo ra những chứng thư cho vay và thanh
toán. Tuy nhiên phải sau 1945, khi các nhà nước thực sự quốc hữu hoá NHTW và
độc quyền phát hành giấy bạc pháp đònh ( tiền NHTW), các loại chứng thư của
NH trung gian mới được chấp nhận rộng rãi như tiền. Như vậy, tuy NH ra đời từ
rất lâu ( Thế kỉ XV) nhưng tiền của nó chỉ được lưu hành rộng rải từ đầu thế kỷ
XX.
Sau khi Chính phủ các nước qui đònh việc phát hành tiền là độc quyền của
NHTW thì các NH còn lại chỉ làm nhiệm vụ những trung gian tài chính giữa
người cho vay và người đi vay tiền trong nền kinh tế, các NHTW hoàn toàn biệt
lập với công chúng, mọi hoạt động của nó đều thông qua những đònh chế trung
gian và chính phủ để tiếp cận với công chúng. Từ nguyên nhân này, những NH
còn lại trong nền kinh tế được gọi là “ NH trung gian”. Trong loại hình NH trung
gian, hệ thống các NHTM chiếm vò trí quan trọng nhất về qui mô tài sản và về
thành phần các nghiệp vụ – hoạt động của NHTM bao gồm 3 lónh vực: nghiệp vụ
nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới
trung gian (dòch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ, vật có
giá….). Ba loại nghiệp vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau
phát triển, tạo nên uy tín cho NH, chính sự kết hợp đồng đồng bộ đó đã trở thành
qui luật hoạt động cho NH và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng
của các NHTM. [3]
Vai trò & nhiệm vụ của NHTM thể hiện qua sơ đồ sau:



Cá nhân


Cá nhân


Tổ chức

Tổ chức



Cho vay
NH:
-Thu thập tiền gửi
- Cho vay
- Cung ứng dòch vụ
Tiền
gửi






Nghiệp vụ kết hợp
Nghiệp vụ chính
- Dòch vụ ngoại hối
- Dòch vụ tư vấn
- KD chứng khoán
- .v.v……



6

Ở nước ta, sau khi cả nước thống nhất, hệ thống NHTM thực thụ được hình
thành năm 1988 sau khi tách ra từ NHNN ( thành lập hệ thống NH 2 cấp). Theo
luật các tổ chức Tín dụng Việt Nam thì NH là loại hình tổ chức Tín dụng được
thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
[16] Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình NH gồm: NHTM, NH
phát triển, NH đầu tư, NH chính sách, NH hợp tác và các loại hình NH khác.
NHNo VN là NHTM nhà nước, hoạt động theo luật các TCTD & luật pháp liên
quan.

II. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM.
1- Quan hệ tín dụng NHTM dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.
NHTM với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động trên cơ sở
đi vay để cho vay thông qua nghiệp vụ tín dụng. Hành vi kinh doanh tiền tệ của
NHTM thực chất là mua quyền sử dụng vốn ( thuê ) và bán ( cho thuê ) lại quyền
sử dụng vốn đó, nó hoàn toàn khác với các loại hình kinh doanh khác của các tổ
chức kinh tế, thể hiện như sau:
- Quan hệ tín dụng (đi vay và cho vay) chủ yếu dựa vào lòng tin lẫn nhau.
Khác với quan hệ mua bán thông thường khác, quan hệ tín dụng NH chỉ trao đổi
quyền sử dụng giá trò khoản vay, chứ không trao đổi quyền sở hữu khoản vay.
Người cho vay giao giá trò khoản vay dưới dạng tiền tệ và hàng hoá cho đối tác sử
dụng khoản vay trong thời hạn cam kết, người vay phải hoàn trả toàn bộ giá trò
khoản vay cộng thêm khoản lợi tức trả cho người cho vay. Do vậy, thực thể khoản
vay vẫn còn tồn tại và có thể luân chuyển từ người này sang người khác do hoạt
động cho vay của chủ thể cho vay.
Trong quan hệ tín dụng, giá trò hàng hoá “khoản vay” không thay đổi hình
thái, mà nó chỉ được chuyển từ người cho vay sang người đi vay và chỉ có một
bên nhận được giá trò, bởi vì chỉ có một bên nhượng đi giá trò mà thôi.
Điều này có nghóa là hàng hoá “ khoản vay ” có đặc điểm sẽ quay trở về
điểm xuất phát của nó, mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trò vốn có, đồng thời lại lớn
lên thêm trong quá trình vận động.
2- Lãi suất – đặc trưng về giá cả trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Lãi suất là giá cả của tín dụng. Lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà
7

người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho
người khác. Người đi vay coi lãi suất là khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử
dụng tạm thời tiền của ngưòi khác. Khi sử dụng khoản tiền vay vào quá trình
SXKD, ngưòi đi vay sẽ thu được lợi nhuận, một phần lợi nhuận này trả cho người
cho vay. Như giá cả của mọi hàng hoá khác, lãi suất cũng phụ thuộc quan hệ
cung cầu. Cung, cầu vốn được hình thành trên cơ sở nguồn ký thác và yêu cầu
của nền kinh tế. Tuy nhiên lượng vốn được cung ứng lại phụ thuộc lãi suất.
Trong thực tiễn, lãi suất chòu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: kỳ hạn
thanh toán, mức độ rủi ro, khả năng thanh khoản, lạm phát, tỷ giá hối đoái, chi
phí hành chính…… Tuy nhiên, để đơn giản hoá một vấn đề phức tạp, lý thuyết vốn
có thể cho vay chỉ qui về một nhân tố cung cầu vốn để nghiên cứu. Lý thuyết này
trong thực tế có thể thấy ở bất cứ nơi đâu có sự biến động về lãi suất cho vay của
NH. Cho dù dich vụ kinh doanh của NH không kém phần quan trọng, nhưng rõ
ràng công việc kinh doanh của NH vẫn là hoạt động như một trung gian tài chính
đó là: chi trả tiền lãi cho phần tiền gửi của khách hàng và thu lãi đối với khoản
tiền cho khách hàng vay. Ở đây ta lưu ý đến hai nhân tố cơ bản cấu thành trong
bất kỳ một lãi suất nào, đó là: (i) phần tiền trả cho người cho vay khi quyền sử
dụng vốn được hoàn trả cho người sở hữu và (ii) phần tiền trang trải chủ yếu rủi
ro trong trường hợp quyền sử dụng vốn không được hoàn trả.
Do đó hình thành nhiều loại lãi suất khác nhau của NHTM.
3- Yếu tố niềm tin trong hoạt động tín dụng NH.
Trong lónh vực hoạt động tài chính, một chủ thể được xem là uy tín khi chủ
thể khác tin tưởng và sẵn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho họ. Tín nhiệm là
yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng
phát sinh.
Từ đó có thể thấy rằng quan hệ tín dụng phải song hành với lòng tin. Khi
thiếu lòng tin, người ta buộc phải gia cố lòng tin bằng các “quyền truy đòi”, áp
dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay…
Lòng tin trong quan hệ tín dụng được biểu hiện cả hai phía: người cho vay
và người đi vay. Riêng về phía người đi vay, nếu họ cảm nhận người cho vay
không đủ điều kiện đáp ứng cho họ về lượng tín dụng, thời hạn cho vay, năng lực
8

đàm phán, các điều kiện phục vụ… thì quan hệ tín dụng vẫn có thể không phát
sinh.
Lòng tin trong quan hệ tín dụng có những nét đặc biệt hơn so với yếu tố
lòng tin trong các quan hệ phi NH bởi NH đóng vai trò là người cho vay vừa là
người đi vay. Do vậy, NH một mặt phải thể hiện lòng tin , mặc khác phải kiểm tra
lòng tin với khách hàng. Điều này trực tiếp quyết đònh sự an toàn, hiệu qủa, đồng
nghóa với sự sinh tồn của NHTM.
Một đặc thù của hoạt động NH là tình trạng tài chính của một NH phụ
thuộc vào niềm tin của khách hàng gửi tiền đối với giá trò tài sản của NH đó. Nếu
họ tin rằng nhiều tài sản của NH đã giảm giá trò thì có thể làn sóng rút tiền ký
thác sẽ diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến phá sản không chỉ riêng NH quản lý kém về
tài sản mà còn kéo theo cả hệ thống.
4- Tín dụng NH tạo tiền ký thác, tạo tài nguyên cho hoạt động NH.
Tạo và hủy tiền là chức năng riêng của tín dụng NH và làm cho hoạt động
tín dụng của NH khác hẳn với hoạt động kinh doanh thông thường khác. Thû sơ
khai, các NH có thể tạo tiền bằng việc phát hành các ngân phiếu thanh toán ( tiền
thân của giấy bạc NH ) thay cho vàng trong lưu thông. Ngày nay, NHTM tạo tiền
bằng cách tạo ra bút tệ ( tiền ghi sổ) theo phương pháp cho vay chuyển khoản.
Khi NHTM cho vay bằng tiền mặt, việc cho vay thực chất là chuyển số tiền
từ tay người này sang tay người khác sử dụng, người cho vay mất đi cái mà người
đi vay nhận được. Nhưng khi NH cho vay chuyển khoản thì NH không mất đi cái
gì mà khách hàng còn có phương tiện tạo ra sức mua.
Tóm lại, trong các loại tín dụng khác, cho vay hoặc thu nợ đều là quá trình
chuyển một lượng tiền từ tay người này sang tay người khác. Trong khi NHTM
cho vay chuyển khoản sẽ tăng lượng tiền (bút tệ), ngược lại khi thu nợ bằng
chuyển khoản sẽ làm giảm một lượng tiền.
Có thể nói rằng NHTM thông qua công cụ tín dụng đã tạo và hủy tiền,
cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Như vậy, NHTM đã tạo tài
nguyên quan trọng nhất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
5- Sử dụng công nghệ đặc biệt: công nghệ biến đổi cơ cấu thời hạn của các
đồng tiền.
9

Hoạt động kinh tế trong xã hội luôn phát sinh tình trạng lưỡng lập, đó là
luôn có những người thừa tiền muốn cho vay và những người thiếu tiền muốn đi
vay. Thò trường tài chính trực tiếp sẽ bò bế tắc trong trường hợp này, nhưng thò
trường tài chính gián tiếp có đủ điều kiện để giải quyết bế tắc trên. Thông qua
họat động tín dụng, NHTM tuy nắm giữ các tích sản kém tính lưu hoạt so với tiêu
sản mà họ phát hành, nhưng vẫn duy trì được năng lực chi trả, đó là đặc trưng mà
tài chính trực tiếp không có được.
Các biện pháp nhằm thay đổi cơ cấu thời hạn ngân quỹ luôn đáp ứng được
yêu cầu về khả năng thanh toán cho khách hàng và khả năng thanh khoản của
NH, đã hình thành một công nghệ đặc biệt của NH - công nghệ thay đổi thời hạn
sử dụng của các đồng tiền.
Thước đo hiệu quả kinh doanh của NHTM là lợi nhuận. Tính khả dụng và
khả năng sinh lời của một tài sản NHTM luôn đối nghòch nhau. Do đó, NH phải
chọn một mức cân bằng giữa các tài sản có tính khả dụng cao nhưng khả năng
sinh lời kém và tài sản có tính khả dụng kém nhưng khả năng sinh lời cao, đồng
thời xem xét vấn đề đối nghòch giữa tính khả dụng và khả năng sinh lời trong khả
năng có thể chấp nhận được. Công nghệ đặc biệt của NH – công nghệ biến đổi cơ
cấu thời hạn của các đồng tiền, là cách làm cho hai yêu cầu có tính tương phản là
“ an toàn và hiệu quả” trở thành tương hợp. Trong nền kinh tế phát triển, công
nghệ NH hiện đại, việc gửi và rút tiền được nhanh chóng, thuận lợi, đã kích thích
công chúng gửi tiền vào NH, vì đó là việc làm nhiều lợi ích so với để tiền trong
túi. Đến lúc ấy, công nghệ biến đổi thời hạn sử dụng của các đồng tiền của
NHTM mới thật sự đầy đủ ý nghóa.
Để tương hợp hai yếu tố: an toàn và hiệu quả, NH đã phải luôn tìm biện
pháp đầu tư tài chính có hiệu quả cao nhất, đồng thời phải bảo đảm khả năng
thanh khoản bằng cách sắp xếp hài hòa các yếu tố tài sản “nợ” và tài sản ‘có”,
đồng thời cũng phải khéo léo áp dụng các kỹ thuật tạo nguồn ký thác mà NH
được quyền sử dụng.
6- Trung tâm biến đổi và tiếp nhận rủi ro trong nền kinh tế.
Quan niệm về NHTM và hoạt động của nó chỉ thực sự đúng đắn và đầy đủ
ý nghóa thực tiễn khi được xem xét gắn với hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt
khi được xem xét dưới góc độ rủi ro của nền kinh tế. Ở những nội dung trên, khi
bàn về tính chất trung gian tài chính của NHTM, chúng ta chỉ xem xét NHTM
10

theo các chức năng tương đối độc lập trong quan hệ với nền kinh tế. Trong thực
tiễn, hệ thống NH và nền kinh tế luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau
một cách chặt chẽ và nhạy bén. Khi NHTM làm nhiệm vụ trung gian tín dụng,
hoạt động NHTM đã ngầm chứa đựng rủi ro. Hơn nữa khách hàng của NHTM là
các chủ thể chứa đựng rủi ro, họ đến NH là muốn san sẽ rủi ro đó cho NH.
Đối với khách hàng, rủi ro gây ra cho họ hết sức đa dạng và phong phú và
xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau ở môi trường nội tại lẫn ngoại vi; từ những
yếu tố kinh tế vi mô đến những tác động từ kinh tế vó mô. Qua con đường tín
dụng họ có thể chuyển các rủi ro đó cho NH.
Đến lượt mình, với chức năng trung gian tài chính, NH trở thành một trung
gian chuyển rủi ro trong nền kinh tế. Thông qua các kênh ký thác, NHTM nhận
các luồng tài chính từ những người cho vay đầu tiên, còn thông qua kênh tín
dụng, NHTM chuyển các luồng tài chính đến người vay sau cùng. Tương tự,
NHTM cũng chuyển đi hoặc nhận về các luồng tài chính từ các đònh chế tài chính
khác. Khi làm việc này, NHTM cũng đồng thời tạo lập các kênh dẫn rủi ro giữa
các chủ thể kinh tế, các đònh chế tài chính với nhau. Rủi ro này có tính chất lây
lan. Vì vậy, tác hại lây lan rủi ro của NHTM là đặc điểm cần lưu ý.
NHTM là chủ thể kết nối ý nguyện về thời hạn đồng tiền giữa 2 chủ thể
nêu trên . Làm việc này, NHTM đã biến đổi rủi ro – giảm rủi ro tái đầu tư cho
người điù vay cuối cùng, đồng thời giảm rủi ro thanh khoản cho người cho vay đầu
tiên. Trường hợp này, NHTM tất nhiên đã nhận về mình các rủi ro khách hàng
chuyển đến .
Sử dụng tiền gửi ngắn hạn để cho vay dài hạn là một trong những biện
pháp tối đa hoá lợi nhuận của NHTM, nhưng rủi ro thanh khoản kèm theo cũng
không nhỏ. Tuy nhiên, vì mục tiêu tối thượng là tối đa hoá lợi nhuận, các NHTM
đều cố gắng hiệu quả hoá tài sản nợ theo phương pháp trên, vì họ tin rằng việc
gửi tiền của khách hàng là một chuỗi tương đối liên tục khi NH còn duy trì được
sự tín nhiệm với các đối tác.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh của NHTM
mở rộng lợi nhuận nhưng cũng đồng thời mở rộng rủi ro cho các chủ thể kinh tế
và cho cả nền kinh tế. Các trung gian tài chính là đầu mối nhạy cảm nhất trong
việc chuyển tải các tác động vi mô lên nền kinh tế vó mô và ngược lại . Vì thế, ổn
11

đònh hoạt động của trung gian tài chính là một trong những tiền đề cơ bản để ổn
đònh kinh tế vó mô. [2], [3], [4]
III. Hiệu quả kinh doanh của NHTM.
Cũng như bao doanh nghiệp khác, mục tiêu tối thượng trong hoạt động của
NHTM là lợi nhuận, trong đó lành mạnh và ổn đònh luôn là nền tảng của hoạt
động NHTM. Lợi nhuận là thước đo hiệu quả kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên,
lợi nhuận NHTM chòu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Vì vậy, khi xem xét hiệu
quả kinh doanh của NHTM, ngoài hệ thống chỉ tiêu về tài chính, người ta còn
xem xét đến nhiều chỉ tiêu liên quan về qui mô và chất lượng tài sản “nợ”, tài
sản “có”, nghiệp vụ trung gian, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời v.v…
Trong phạm vi luận văn, chỉ tập trung đề cập khái quát một số vấn đề lý thuyết
trực tiếp liên quan sau đây:
1- Chất lượng tài sản có.
Tài sản “có” là phần nguồn vốn được sử dụng vào kinh doanh và duy trì
khả năng thanh toán của một NHTM. Chất lượng tài sản “có” là chỉ tiêu tổng hợp
nhất nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời và năng lực
quản lý của một NHTM. Phần lớn rủi ro vốn trong kinh doanh tiền tệ đều tập
trung ở tài sản “có”.
Thông thường, tài sản “có” của NHTM bao gồm:
+ Tiền mặt và tiền gửi ở NHNN: loại tài sản này không sinh lời, chủ yếu
dùng vào mục đích thanh khoản (trừ loại dự trữ thặng dư khi được sử dụng như tài
sản “có” sinh lời). Loại này gọi chung là tiền dự trữ, bao gồm: dự trữ bắt buộc
(dự trữ pháp đònh), dự trữ luân chuyển, dự trữ thặng dư (dự trữ dư thừa).
Tiền dự trữ là các tài sản lưu hoạt cao, có thể đáp ứng tức khắc các nhu cầu
rút tiền của người ký thác.
+ Cho vay các TCKT và các tầng lớp dân cư : đây là bộ phận sinh lời chủ
yếu và cũng là nơi phát sinh nhiều rủi ro của NHTM.
+ Đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
+Tài sản có khác: tài sản cố đònh và thiết bò; các khoản phải thu….
12

Để phân tích tài sản “có” một cách toàn diện, các nhà quản trò phải nghiên
cứu từ việc xác đònh chính sách, chiến lược kinh doanh đến các thủ tục nghiệp vụ,
khả năng kiểm soát nội bộ và độ an toàn về tài sản của NH. Khi cấp tín dụng, các
NH phải quan tâm đến nguyên tắc rủi ro… Khi phân tích tài sản “có”, công việc
đầu tiên của nhà quản trò là phải phân loại các khoản nợ để quản lý một cách
hiệu quả các khoản nợ này.
Tài sản “có” của NHTM phần lớn là các khoản cho vay. Do đó, việc đánh
giá chất lượng tín dụng và xem xét sự tác động của nó đối với các yếu tố tài
chính là việc làm quan trọng trong phân tích. Sức bền của một NHTM phụ thuộc
rất nhiều vào chất lượng tài sản “có” và tình hình trích lập dự phòng rủi ro.
2- Khả năng thanh toán.
Khả năng thanh toán của NHTM có thể xem xét theo nhiều góc độ khác
nhau. Theo chúng tôi khả năng thanh toán của một NHTM là tình trạng tiền mặt
sẳn sàng (Access to ready cash) để chi trả hay gia tăng tài sản có.
Đánh giá khả năng thanh toán của một NHTM là vấn đề khó khăn. Về cơ
bản, phân tích khả năng thanh toán của một NHTM là xem xét khả năng giải
quyết được vấn đề nguồn vốn vào lúc tương đối bức xúc.
3- Khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là kết quả cụ thể nhất của quá trình kinh doanh. Mọi
doanh nghiệp trong nền kinh tế thò trường chỉ có thể tồn tại và phát triển bằng
cách tạo ra lợi nhuận trong kinh doanh. Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp đánh
giá hiệu quả kinh doanh của các NHTM. [2], [3], [4], [5]
Để lượng hóa những vấn đề nêu trên, người ta thường sử dụng một số chỉ
tiêu quan trọng sau đây để đánh giá hiệu quả kinh doanh của NHTM:
1. Chỉ tiêu về nguồn vốn:
Số dư của từng loại nguồn vốn
Tỷ trọng từng loại nguồn vốn = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100
Tổng nguồn vốn

Vốn huy động
Tỷ trọng vốn huy động = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100
Vốn tự có của NH
13


2. Chỉ tiêu về chất lượng tài sản “có”:

Tổng dư nợ Dư nợ quá hạn
H₁ = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ ; H
3
= ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯
Nguồn huy động Tổng dư nợ cho vay
H₁ : Xác đònh hiệu quả của một đồng vốn huy động. Nếu H₁ càng lớn, vốn
tồn đọng càng ít, đồng thời rủi ro tín dụng càng lớn.
H₃ : Thể hiện chất lượng tín dụng.
3. Chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
Người ta thường dùng chỉ số sau đây để đánh giá khả năng thanh toán của
NHTM:
Tài sản “có” động
Khả năng thanh toán tức thì = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100
Tài sản “nợ” dễ biến động

Tài sản có động là tài sản có dễ chuyển đổi thành tiền. Chỉ số đo lường khả
năng thanh toán tức thì cao, chứng tỏ NH có thanh khoản tốt. Nhưng nếu chỉ số
này quá cao, nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của NH.
Vấn đề đặt ra là chỉ số này ở mức bao nhiêu là hợp lý. Thông thường, các
NHTM hoạt động tốt có thể duy trì chỉ số này tương đối thấp so với NHTM hoạt
động yếu kém.
4. Khả năng sinh lời: Để đánh giá lợi nhuận của NHTM, người ta thường sử
dụng các chỉ số sau đây:
Thu nhập ròng Thu nhập ròng
ROA = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100 ; ROE = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100
Tài sản có Vốn tự có

Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu bổ sung sau:
Thu nhập ròng
* Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng thu nhập = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100
Tổng thu nhập

Lãi ròng
*Tỷ suất lợi nhuận = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100
14

Tài sản có sinh lời
Thu nhập lãi - chi phí lãi
*Lãi ròng biên tế = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯
Tích sản sinh lãi ròng
Trong hệ thống NHNo VN, chi nhánh cấp 1 (NHNo Tỉnh, Thành phố và các
đơn vò thành viên khác) không được NHNo VN giao chỉ tiêu lợi nhuận mà sử
dụng chỉ tiêu Qũy thu nhập để đánh giá năng lực tài chính và hiệu quả kinh
doanh.
Qũy thu nhập = Doanh thu – chi phí (không kể chi lương)
Bên cạnh, căn cứ Thông tư số 49/2004/TT-BTC ngày 03/06/2004 của Bộ
Tài chính về hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các tổ
chức tín dụng nhà nước, NHNo VN đã cụ thể hóa hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả kinh doanh đối với chi nhánh cấp 1 trực thuộc trong hệ thống NHNo VN bao
gồm:
(1) Tốc độ tăng trưởng huy động vốn tại đòa phương.
Số dư vốn huy động bình quân của năm nay
(1) = ( ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ - 1 ) x 100
Số dư vốn huy động bình quân của năm trước

(2) Tốc độ tăng trưởng đầu tư vốn.
Dư nợ cho vay và đầu tư giấy tờ có giá bình quân năm nay
(2) = ( ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ - 1 )x 100
Dư nợ cho vay và đầu tư giấy tờ có giá bình quân năm trước
Tài sản có sinh lời bình quân
(3) Khả năng sinh lời = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100%
Tổng tài sản có nội bảng bình quân
(4) Tỷ lệ thu dòch vụ.
Số Dư NQH cuối kỳ
(5) Tỷ lệ NQH = ⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯ x 100
Tổng dư nợ cho vay cuối kỳ
(6) Chênh lệch lãi suất = Lãi suất thực tế đầu ra – Lãi suất thực tế đầu vào



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét