Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Thực trạng và những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng

Bên cạnh khái niệm về làng nghề truyền thống còn có khái niệm về làng nghề
mới. Đó là những làng nghề mới đợc hình thành do phát triển từ những làng nghề
truyền thống hoặc tiếp thu những nghề mới phục vụ đời sống sản xuất và sinh hoạt
trong khu vực. Sự xuất hiện và phát triển của các làng nghề này cũng mang những ý
nghĩa tích cực đối với đời sống khu vực kinh tế nông thôn nói riêng và nền kinh tế
thành phố nói chung.
Khi nói đến một làng nghề, ta không chỉ chú ý đến các mặt đơn lẻ mà phải chú ý
đến nhiều mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là phải quan tâm tới tính hệ
thống, toàn diện của làng nghề đó. Trong đó, yếu tố quyết định là sản phẩm và kỹ thuật
sản xuất. Làng nghề là một trung tâm sản xuất hàng hoá, nơi quy tụ nhiều nghệ nhân,
thợ giỏi và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính chất truyền thống lâu đời, có
sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phờng hội, kiểu hệ thống
doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn có những ớc chế gia
tộc và xã hội ( đối với một số làng nghề truyền thống). Sản phẩm của làng nghề làm ra
chẳng những có tính thiết dụng mà hơn thế, một số sản phẩm còn là loại hàng hoá tinh
xảo, nghệ thuật, mang nhiều giá trị văn hoá và tinh thần. Vai trò, tác động của làng
nghề đối với đời sống kinh tế- văn hoá- xã hội là rất tích quan trọng, đặc biệt đối với
khu vực nông thôn.
ở nông thôn nớc ta, trong các hộ tiểu nông ngoài việc sản xuất nông nghiệp là
chính trong những lúc nông nhàn ngời nông dân còn tham gia những công việc có tính
phụ trợ nh đan lát, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải Đây có thể coi là sự kết hợp hữu cơ
giữa nông nghiệp, thủ công nghiệp và thơng nghiệp. Nó nằm trong cơ cấu mà Các Mác
gọi là Phơng thức sản xuất Châu á. Những ngời thợ thủ công hay thơng nhân này
thực chất vẫn là nông dân, vẫn thực hiện cái công việc chính yếu của nhà nông. Do đặc
điểm này mà Lê-nin đã nhận xét: Công nghiệp gia đình là cái phụ thuộc tất nhiên
của kinh tế tự nhiên mà những tàn d hầu nh vẫn luôn rớt lại ở những nơi nào có tiểu
nông và đứng về mặt là một nghề nghiệp thì công nghiệp vẫn cha tồn tại dới các
hình thức đó: ở đây, nghề thủ công với công nghiệp chỉ là một mà thôi.
Do sự phát triển của nền kinh tế, nghề thủ công dần dần tách ra khỏi nông nghiệp
và quay lại phục vụ cho nông nghiệp. Khi đó một số thợ thủ công không còn làm nghề
nông nhng họ vẫn gắn chặt với làng quê, lao động sinh sống trên làng quê và hoạt động
sản xuất tạo ra các sản phẩm phục vụ đời sống cho khu vực này. Số ngời tách khỏi
ruộng đồng ngày càng lớn. Họ chuyển hẳn sang làm nghề thủ công và tồn tại, sinh
sống bằng nghề đó. Theo đó, các làng có số ngời làm nghề tăng lên và trở thành làng
nghề. Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần, tồn tại cố định của một hay
nhiều nghề thủ công truyền thống. Mỗi nghề thủ công truyền thống đợc bảo tồn, hoạt
động và phát triển ở một làng nghề, cụm làng nghề hay ở nhiều làng nghề, vùng nghề.
Điều này xuất phát và do đó cũng thể hiện sức sống mạnh mẽ, tính thiết thực của các
nghề thủ công lâu đời ở nớc ta. Đối với các làng nghề mới, sự hình thành không qua
khoảng thời gian lâu dài nh vậy nhng các làng nghề mới cũng xuất phát do những nhu
cầu cấp thiết mà trớc hết là nhu cầu của khu vực nông thôn. Sản phẩm của các làng
nghề tạo ra đầu tiên là nhằm phục vụ khu vực nông thôn, vì đòi hỏi của khu vực nông
thôn cho sản xuất hay sinh hoạt hàng ngày. Lợng lao động làm một hay một số nghề
trong phạm vi làng tăng làm hình thành lên các làng nghề mới. Mà trong đó những ng-
ời lao động cũng có gốc là nông dân, thậm chí vẫn hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Cũng nh đối với làng nghề truyền thống, sự liên kết hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ
thuật đào tạo giữa các hộ sản xuất đã tạo nên làng nghề ngay trên đơn vị c trú của họ.
Cái ban đầu thúc đẩy ngời nông dân làm việc trong các ngành nghề nông thôn (bao
gồm cả nghề truyền thống và nghề mới) đó là phần thu nhập đáng kể do các ngành
nghề nông thôn đem lại. Nó chứng tỏ hiệu quả của làng nghề đối với việc phát triển
nông thôn.
Làng nghề thờng xuất hiện theo những con đờng chủ yếu sau:
-Có nghệ nhân từ nơi khác đến truyền nghề, nghệ nhân này đợc suy tôn là tổ nghề.
-Từ một số cá nhân hay gia đình dòng họ có những kỹ năng và có sự sáng tạo nhất
định
-Do những ngời đi nơi khác học sau đó truyền lại nghề
-Do chủ trơng của địa phơng khuyến khích phát triển nghề phụ, phục vụ cho đời
sống xã hội và cải thiện đời sống nông dân.
-Một số làng nghề hình thành trên cơ sở sự lan toả dần từ một số làng nghề khác,
tạo ra một cụm làng nghề, xã nghề ở vùng lân cận.
Tuỳ theo mỗi địa phơng, mỗi ngành nghề, sản phẩm cũng nh chất lợng của sản
phẩm và tuỳ theo nhu cầu thị trờng mà mỗi làng nghề có một con đờng hình thành
khác nhau nh đã nêu trên. Tuy nhiên, sự tồn tại của làng nghề có bền vững hay không,
có đạt đợc hiệu quả hay không thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đó có cả
những yếu tố chủ quan và khách quan đối với các làng nghề.
Hải Phòng, một thành phố trẻ mới thành lập hơn 100 năm ( từ năm 1888) nhng
ngời nông dân xa xa cũng đã có truyền thống sản xuất thủ công nghiệp. Từ cuối thế kỷ
XIX đến nay, Hải Phòng đã có trên 60 làng nghề truyền thống với trên 20 ngành nghề
khác nhau. Đó là những ngành nghề truyền thống đã từng có tên tuổi trong cả nớc nh
nghề dệt ( Cổ Am- Vĩnh Bảo), nghề điêu khắc, sơn mài (Bảo Hà- Vĩnh Bảo), nghề ơm
tơ dệt lụa (Lơng Quy-An Hải) Những ngành nghề này đã có khoảng thời gian phát
triển rất thịnh vợng nhng do những biến động của thời gian cùng nhiều lý do khách
quan và chủ quan khác nhau nên hầu hết các làng nghề này bị mai một và đi vào lịch
sử. Chỉ có một số nhỏ các làng nghề còn giữ đợc nghề, tiếp tục tồn tại cho đến nay, còn
các làng nghề khác, hoặc bỏ nghề, hoặc chuyển đổi nghề khác phù hợp với nhu cầu thị
trờng hơn. Từ đó phát sinh các làng nghề mới với những ngành nghề mới nh vận tải,
vật liệu xây dựng Tuy nhiên hầu hết các làng nghề này chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún, hiệu quả kinh tế không cao. Những năm gần đây, do chính sách đổi mới kinh tế
của Đảng, Nhà nớc và Thành phố đã khuyến khích đợc nhiều ngành sản xuất trong
nông nghiệp- nông thôn, nhất là ngành sản xuất có sản phẩm phục vụ sản xuất nông
nghiệp và đời sống ngời nông dân. Trong dó có cả việc khôi phục các ngành nghề
truyền thống và xây dựng phát triển các ngành nghề mới. Bớc đầu, hoạt động này đã có
hiệu quả nhng tính tồn tại và sự phát triển bền vững của các ngành nghề này còn yếu.
1.1.2. Đặc điểm của làng nghề:
Đặc điểm đầu tiên có thể thấy ở các làng nghề Việt Nam nói chung là sự phát
triển của làng nghề gắn liền với sự phát triển của xã hội nông thôn. Nói cách khác,
làng nghề có sự gắn bó không tách rời với nông nghiệp nông thôn về lao động, thị tr-
ờng, nguyên liệu, đất đai
Các nghề thủ công và các ngành nghề nông thôn khác dần tách khỏi nông nghiệp
nhng không tách khỏi nông thôn mà nó quay trở lại phục vụ cho nông thôn. Do đó,
phát triển các ngành nghề là góp phần phát triển nông nghiệp-nông thôn.
Thứ hai, về hình thức tổ chức sản xuất lao động, nói chung ở các làng nghề từ xa
đến nay chủ yếu vẫn là hình thức tổ chức kinh tế hộ gia đình. Một số đã có sự phát
triển thành HTX và xí nghiệp t nhân. Trong hình thức tổ chức sản xuất hộ gia đình, ng-
ời chủ gia đình thờng là thợ cả, trong đó thờng là nghề nhân hoặc thợ giỏi còn các
thành viên khác đợc huy động vào các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất,
kinh doanh và điều này phụ thuộc và khả năng cùng nh giới tính hoặc lứa tuổi của từng
ngời. Đáng lu ý là ngời lao động có tuổi ở các làng nghề truyền thống lại có thể là
nguồn nhân lực quý cần khai thác về kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất. Các cơ sở sản
xuất nói chung có thể thuê lao động theo hình thức thờng xuyên hay thời vụ tuỳ theo
yêu cầu sản xuất và khả năng của bản thân các cơ sở. Hình thức này bảo đảm gắn bó
quyền lợi và trách nhiệm, tận dụng đợc lao động và thời gian. Nó phù hợp với các cơ sở
sản xuất nhỏ không có nhu cầu lớn về đầu t nh hiện nay.
Thứ ba, đặc điểm về sản phẩm, nguyên liệu và thị trờng của làng nghề. Sản phẩm
của các làng nghề thờng là các vật dụng phục vụ cho đời sống sản xuất và sinh hoạt
hàng ngày nh các loại thực phẩm (sản phẩm của nghề chế biến nông sản ) hay các vật
dụng đơn giản (sản phẩm nghề mây tre đan) hoặc phục vụ nhu cầu sinh hoạt ( sản
phẩm nghề thêu, dệt, chạm khắc, vận tải) Các loại sản phẩm này không chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu cho ngời nông dân mà nó còn mang tính văn hoá, tính mỹ thuật.
Nhất là đối với các sản phẩm của các làng nghề truyền thống, chúng mang những giá
trị văn hoá độc đáo, thậm chí trở thành các di sản mang bản sắc của vùng, của dân tộc.
Tuy nhiên, do tính chất sản xuất thủ công nên sản xuất không phải là sản xuất hàng
loạt mà chỉ đơn chiếc. Các làng nghề cũng cha đủ khả năng theo kịp đợc sự phát triển
của đời sống xã hội trong nớc và thị hiếu nớc ngoài. ở Hải Phòng, số lợng các làng
nghề truyền thống có tên tuổi không còn nhiều nên chủ yếu các làng nghề hiện nay sản
xuất các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khu vực là chính.
Nguyên liệu cho sản xuất ở các làng nghề chủ yếu là khai thác tại địa phơng và
các nguồn nguyên liệu trong nớc, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, các nguồn nông
lâm hải sản của địa phơng. Việc sơ chế nguyên liệu thông thờng do các cơ sở sản xuất
tự làm lấy với kỹ thuật thủ công đơn giản hoặc máy móc kỹ thuật tự chế, lạc hậu.
Chính vì vậy mà việc tiêu chuẩn hoá chất lợng nguyên liệu cũng nh chất lợng sản phẩm
là khó khăn. Về thị trờng tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề , sản trong điều kiện
hiện nay, thị trờng tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề đợc mở rộng bao gòm cả thị tr-
ờng trong nớc và thị trờng nớc ngoài. Tuy nhiên do chất lợng sản phẩm còn cha cao
cũng nh những yếu kém trong tổ chức tiêu thụ sản phẩm mà khả năng tiếp cận thị trờng
của các làng nghề hiện nay cha cao. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu hiện nay là các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ. Các loại sản phẩm này thu hút đợc sự chú ý và hấp dẫn với thị
trờng nớc ngoài do tính thủ công tinh xảo và nét văn hoá truyền thống đặc trng của các
sản phẩm này. Do đó, làng nghề không chỉ là một trong những đơn vị kinh tế góp phần
thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng trong nớc thay thế hàng nhập khẩu đồng
thời hớng mạnh ra xuất khẩu mà nó còn là nét đặc sắc, sự kết tinh và bảo lu các giá trị
văn hoá của cộng đồng làng xã ở Việt Nam.
Về nhu cầu vốn, các làng nghề thờng không yêu cầu vốn đầu t lớn, nhng lại có
khả năng thu hút nhiều lao động, có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội.
Cơ sở vật chất, nhà xởng và thiết bị công nghệ: tình trạng phổ biến hiện nay trong
các làng nghề là sử dụng ngay nhà ở, diện tích ở làm nơi sản xuất. Điều này xuất phát
từ quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất theo gia đình. Khi quy mô sản xuất tăng lên hay
những sự thay đổi cần thiết về điều kiện sản xuất khác phát sinh thì gây ra rất nhiều
khó khăn. Đơn giản nh việc sử dụng hoá chất trong sản xuất, do không có những dự trù
cho việc xử lý chất thải và hoá chất thải nên những chất thải độc hại này có ảnh hởng
xấu trực tiếp đến hộ gia đình sản xuất và hơn thế nữa, ảnh hởng đến cả môi trờng
chung của làng, xã, những gia đình lân cận. Đây đang là một vấn đề khó cho việc phát
triển làng nghề hiện nay.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của các làng nghề hiện nay. Những đặc điểm
này là một trong những cơ sở đáng lu ý để nghiên cứu và tạo ra những biện pháp thúc
đẩy phát triển kinh tế làng nghề đồng thời hạn chế những tác động không tốt.
1.2. Vai trò của kinh tế làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn n ớc ta
1.2.1. Vai trò của làng nghề đói với phát triển kinh tế nói chung:
Trong công cuộc CNH-HĐH đất nớc, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một
bộ phận rất quan trọng, là vấn đề luôn luôn đợc Đảng và Nhà nớc quan tâm. Thông qua
các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Văn kiện Đại hội ĐảngVIII, ta có thể thấy, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn thực chất là quá trình phát triển nông thôn theo h-
ớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là:
-Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có năng suất cao trên cơ sở trang
thiết bị, công nghệ và vật t tiên tiến để thay thế nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu.
-Phát triển các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp với tỷ trọng ngày càng lớn
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hớng công-nông nghiệp- dịch vụ.
-Tăng cờng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn để thực hiện yêu cầu từng bớc
đô thị hoá nông thôn.
Qua đó, ta có thể thấy đợc, khu vực kinh tế làng nghề chính là một bộ phận quan
trọng cần phát triển ngoài nông nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Sản xuất phi nông nghiệp ở các làng nghề là một trong những cánh cửa tiến tới tăng tỷ
trọng giá trị hàng hoá công nghiệp ở nông thôn, hớng tới sản xuất hàng hoá lớn và cải
tiến công nghệ, trang thiết bị sản xuất, cơ sở hạ tầng sản xuất nói chung.
Phát triển ngành nghề nông thôn còn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết
công an việc làm cho một số lợng lớn lao động nông thôn, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ởt
nông thôn. Hoạt động của làng nghề sẽ thu hút một lợng không nhỏ những lao động
còn d thừa ở khu vực nông thôn cũng nh tạo thêm việc làm và thu nhập cho ngời dân
trong những lúc nông nhàn. Nhu cầu việc làm của ngời dân nông thôn là một gánh
nặng không chỉ cho khu vực nông thôn mà cho cả xã hội. Lợng ngời không có việc làm
là một nguy cơ dẫn đến tệ nạn xã hội, cha kể đến số ngời có việc làm chỉ thực sự có
việc làm khi mùa vụ, thời gian còn lại là rảnh rỗi. Đây là sự lãng phí lao động xã hội,
lãng phí thời gian nếu không có những biện pháp tác động phù hợp tạo ra việc làm cho
những ngời này. Việc phát triển làng nghề và ngành nghề nông thôn là một câu trả lời
cho vấn đề này. Phát triển kinh tế làng nghề sẽ tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp mạnh mẽ hơn, phân công lao động hợp lý hơn. Lao động tham gia và
làng nghề không chỉ là những ngời thất nghiệp mà nó còn tạo ra việc làm cho những
ngời bán thất nghiệp, những ngời cần việc làm thêm lúc nông nhàn. Bình quân, một cơ
sở trong làng nghề tạo điều kiện cho 27 lao động, mỗi hộ giải quyết 3-5 lao động.
Ngoài lao động thờng xuyên còn thu hút lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Có nhiều làng
nghề thu hút trên 60% số lao động trong làng vào các hoạt động ngành nghề. Hiện nay,
trên cả nớc có hơn 1000 làng nghề và thu hút đợc khoảng 11 triệu lao động nông thôn.
Các ngành nghề, làng nghề phát triển kéo theo và mở ra nhiều ngành nghề khác nhau,
nhiều hoạt động dịch vụ liên quan, tạo thêm nhiều việc làm mới thu hút thêm lao động.
Do đó, ngành nghề, làng nghề ở nông thôn đợc coi nh là một động lực trực tiếp giải
quyết việc làm cho lao động ở nông thôn.
Phát triển làng nghề tạo điều kiện tăng thu nhập cho ngời lao động, đóng góp cho
sự phát triển của địa phơng, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hẹp
khoảng cách đời sống giữa nông thôn và đô thị. Tăng thu nhập là một vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng đối với ngời lao động và nhất là đối với ngời nông dân hiện nay có
mức sống còn rất thấp. Hiện nay, năng suất lao động trong ngành nông nghiệp còn
thấp, sản xuất cha ổn định. Hoạt động trong ngành nông nghiệp không đem lại cho ng-
ời dân một mức thu nhập ổn định chứ cha nói đến thu nhập cao. Phát triển kinh tế làng
nghề là cơ hội cho ngời nông dân tăng thu nhập của mình theo hai cách. Hoặc là tham
gia và làng nghề và nhận thu nhập do ngành nghề đem lại, hoặc tham gia hoạt động
dịch vụ phục vụ cho làng nghề và nhận thu nhập từ hoạt động đó. Các dịch vụ phát sinh
phục vụ cho sản xuất của làng nghề cũng khá phong phú, nó có thể là dịch vụ cung ứng
nguyên vật liệu, dịch vụ sửa chữa máy móc, công cụ sản xuất, dịch vụ chuyên khâu hỗ
trợ sản xuất hay dịch vụ tiêu thụ ở Hải Phòng, thu nhập do làng nghề đem lại cũng
cao gấp 2,1 đến 2,3 lần so với thu nhập của mọt lao động thuần nông. Đối với các làng
nghề, thu nhập phi nông nghiệp ngày càng trở nên quan trọng và đóng vai trò chủ yếu
trong thu nhập của các lao động làng nghề. Thu nhập tăng là đẩy lùi đói nghèo, là tiền
đề cho việc đẩy lùi sự lạc hậu, kéo gần hơn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
Thu nhập tăng cũng là cơ sở cho các đơn vị sản xuất đầu t nâng cấp các loại máy móc
nâng cấp các yếu tố đầu vào, tăng năng suất và chất lợng sản phẩm. Đời sống ở khu
vực nông thôn đợc cải thiện là điều kiện góp phần củng cố cơ sở hạ tầng nông thôn.
Đây là một trong những mục tiêu và yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại
hoá nông nghiệp- nông thôn mà Đảng và Nhà nớc đã đề ra.
Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra một khối lợng hàng hoá lớn đáp
ứng nhu cầu trong nớc và xuất khẩu. Năm 1996, giá trị sản xuất ngành nghề nông
thôn khoảng 27.500 tỷ đồng. Tại các làng nghề, giá trị sản lợng tiểu thủ công nghiệp
chiếm đến 60-80%. Có những làng nghề mà 100% các hộ đều tham gia làm nghề. Các
làng nghề nghề này không những tạo ra một nguồn thu nhập không nhỏ cho dân c nông
thôn mà nó còn đóng góp cho Ngân sách Nhà nớc. Tỷ trọng GDP trong tiểu thủ công
nghiệp dịch vụ tăng lên trong tổng số GDP đợc tạo ra ở nông thôn. Trên cơ sở tạo việc
làm, tăng thu nhập ở nông thôn, giá trị sản lợng tạo ra từ các ngành nghề nông thôn
tăng. Nông thôn có tích luỹ và có điều kiện để nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ
tầng. Ngành nghề ở nông thôn đóng vai trò động lực trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, tăng phúc lợi xã hội cho ngời dân. Trong tơng
lai, nhiều làng nghề, ngành nghề còn là vệ tinh cho các doanh nghiêp lớn ở nông thôn.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo điều kiện thu hút vốn đầu t và thu hút các nghệ
nhân, thợ giỏi tham gia lao động, tạo giá trị và làm giàu đất nớc. Đối với các cơ sở
làm nghề ( thờng là các hộ gia đình ) đầu t cho sản xuất không đòi hỏi lợng vốn quá
cao so với các hình thức doanh nghiệp khác. Có thể, chỉ với vài triệu đồng ban đầu
cũng có thể hình thành một cơ sở sản xuất nhỏ. Thế nhng nếu tính tất cả các hộ sản
xuất trong làng nghề thì lợng vốn là không nhỏ. Điều đó cho ta thấy rằng, làng nghề
phát triển tạo điều kiện thu hút vốn trong đân, phát huy sức mạnh của kinh tế cá thể,
kinh tế hộ gia đình. Ngoài ra, kinh tế làng nghề còn có u điểm là với quy mô sản xuất
không lớn, sản xuất tiến hành ngay trên địa điểm c trú của chủ cơ sở sản xuất. Nh vậy
là tiết kiệm đợc khoản đầu t cho việc xây dựng nhà xởng, kho tàng lu chứa hàng hoá.
Khoản tiết kiệm này lên tới 30-40% vốn đầu t xây dựng cơ bản. Phát triển kinh tế làng
nghề rất có lợi thế trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu t cho sản xuất.
Mặt khác, làng nghề phát triển còn tập trung thu hút đợc nhiều thợ thủ công có tay
nghề cao, có kinh nghiệm lâu năm về làm nghề. Nếu làng nghề không phát triển thì
thực sự là lãng phí và có thể đẩy những ngành nghề truyền thống đến chỗ bị mai một.
Tại các làng nghề, phơng pháp truyền nghề chủ yếu hiện nay là vừa học vừa làm, học
đến đâu làm đến đó, không có thời hạn cho mỗi khoá học nghề, không có trờng lớp đào
tạo chính quy. Nhà nớc hiện cũng cha tổ chức phát triển các lớp đào tạo ngành nghề
nông thôn, do đó, những nghệ nhân, thợ giỏi còn là nguồn truyền nghề quan trọng cho
lớp trẻ sau này.
1.2.2. Vai trò của làng nghề đối với xã hội nói chung:
Không chỉ góp phần phát triển kinh tế, về mặt xã họi, làng nghề cũng có những
đóng góp không nhỏ. Phát triển kinh tế làng nghề có một vai trò quan trọng dối với sự
ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Xuất phát
từ việc có việc làm, tăng thu nhập, làng nghề hạn chế những tệ nạn xã hội, ổn định an
ninh trật tự khu vực. Xã hội ổn định là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế nói
chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Ngời nông dân có việc làm ngay
tại trên quê hơng bản quán của mình sẽ chuyên tâm làm ăn, xây dựng làng xóm. Nhất
là đối với lớp thanh niên, khi thiếu việc làm thờng xuất hiện t tởng thoát ly, tìm việc
làm trên thành phố. Lợng ngời di c ra thành phố hàng năm vốn là một bài toán khó cho
các cấp lãnh đạo khu vực đô thị. Số ngời này không có trình độ chuyên môn, trình độ
văn hoá thấp, chủ yếu kiếm việc lao động phổ thông. Họ không có chỗ ở ổn định,
không chịu sự quản lý của chủ lao động nào và là nguy cơ về tệ nạn xã hội. Làng nghề
phát triển tạo ra việc làm cho ngời dân, thực hiện Ly nông bất ly hơng đem lại cho
ngời dân một cơ hội làm giàu trên mảnh đất mình sinh sống và làm giảm đi gánh nặng
cũng nh sức ép cho đô thị. Việc phát triển kinh tế làng nghề góp phần nâng cao đời
sống văn hoá tinh thần cho dân c. Khi nghề nghiệp đã phát triển, ngời thợ có thể sống
bằng nghề nghiệp của mình, khi đó, nghề nghiệp chính là cái gốc của đời sống, là cội
nguồn của những giá trị văn hoá tinh thần tác động đến tâm lý, tình cảm, phong tục tập
quán lề lối làm việc làm cho đặc trng văn hóa về các nghề nghiệp mang đậm nét ở
những nơi đó. Các sản phẩm tạo ra mang đậm nét văn hoá làm phong phú thêm đời
sống cho ngời dân địa phơng. Trong các làng nghề truyền thống thờng có phong tục
thờ ông tổ nghề và có ngày hội làng, hội nghề. Đây là một nét văn hoá riêng độc đáo
của ngời Việt Nam. Qua các làng nghề ta có thể hiểu thêm đợc văn hoá nghề, văn hoá
sống của con ngời Việt Nam.
Cuối cùng phải nói đến là việc phát triển kinh tế làng nghề có vai trò đống góp
một phần trong việc bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Một số
sản phẩm của làng nghề, bản thân nó cũng là một tác phẩm nghệ thuật. Nó vợt qua giá
trị hàng hoá đơn thuần để trở thành di sản hay biểu tợng truyền thống văn hoá của làng
xã hay vùng. Nghề truyền thống đợc duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác, đợc lu
truyền và bảo tồn cho con cháu dân tộc Việt Nam. Thực hiện điều này chính là bảo tồn
bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, việc phát triển và khôi phục làng nghề có những tác động tích cực đến
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn, tạo thêm những điều
kiện cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nh phát triển cơ sở hạ
tầng, văn hoá, y tế, giáo dục, nâng cao đời sống dân c nông thôn. Ngợc lại, công
nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn lại tạo điều kiện để làng nghề có cơ hội phát triển
nhanh hơn, có khả năng để cơ giới hoá và hiện đại hoá.
Để minh chứng cho vai trò và hiệu quả của việc phát triển làng nghề, có thể đa ra
một vài nét về kết quả hoạt động của làng nghề ở một số địa phơng trong cả nớc. Cả n-
ớc hiện có khoảng hơn 2000 làng nghề, trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống. Các
làng nghề trong cả nớc đã tham gia tạo việc làm cho hơn 8,1 lao động so với hơn 30
triệu lao động trong cả nớc. Giá trị sản lợng hàng hoá của các làng nghề sản xuất ra nh-
ng năm gần đây tăng, năm 2001 đạt 6.37 tỷ đồng. Có nhiều địa phơng rất phát triển các
ngành nghề nông thôn nh Nam Hà (123 làng nghề), Thanh Hoá (100 làng nghề), Thái
Bình (82 làng nghề) Trong đó có những địa phơng có phong trào sản xuất tốt, có
những làng nghề nổi tiếng không chỉ trong nớc nh các làng nghề ở Hà Tây, Thanh
Hoá Các địa phơng này đã tận dụng và phát huy hiệu quả những tiềm năng vốn có

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét