Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

162 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở VN

Các tiêu thức phân bố nguồn nhân lực
Phân bố nguồn nhân lực giữa hai lĩnh vực sản xuất vật chất và không sản xuất vật
chất.
Nhìn tổng quát, toàn bộ các nguồn nhân lực đều được phân bố vào hai lĩnh vực: sản
xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Lao động sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất,
mang hình thái hiện vật gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, nó sáng tạo ra sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân, tính chất của loại lao động này biểu hiện ra ở chỗ nó được vật
chất hoá. Lao động không sản xuất vật chất cũng là lao động có ích, cần thiết đối với xã
hội. Trong điều kiện hiện nay, vai trò của lao động hoạt động trong lĩnh vực này ngày càng
trở nên quan trọng.
+ Lĩnh vực sản xuất vật chất gồm các ngành: công nghiệp, xây dựng, nông – lâm – ngư
nghiệp, vận tải, bưu điện, thương nghiệp và các ngành khác (xuất bản, sản xuất phim…)
+ Lĩnh vực không sản xuất vật chất gồm các ngành: nghiên cứu khoa học, giáo dục, văn
hoá nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao, du lịch, ngân hàng tín dụng, bảo hiểm xã hội, dịch vụ
công cộng và các dịch vụ sinh hoạt, đời sống, quản lý nhà nước
Xu hướng có tính quy luật trong lịch sử xã hội của con người là tỷ trọng số người hoạt
động trong lĩnh vực không sản xuất vật chất ngày càng tăng và vượt quá tỷ trọng của số
người hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất.
Phân bố nguồn nhân lực giữa các ngành chủ yếu: nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ.
Phân bố nguồn nhân lực giữa các vùng lãnh thổ.
1.4. Phân loại nguồn nhân lực.
Tuỳ theo giác độ nghiên cứu mà người ta chia nguồn nhân lực theo các tiêu thức khác
nhau.
* Căn cứ vào nguồn gốc hình thành người ta chia làm 3 loại:
Một là, nguồn nhân lực có sẵn trong dân số, bao gồm những người trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động. Theo thống kê của liên hợp quốc nhóm này là dân số lao động
(Active population). Độ tuổi lao động là giới hạn về tâm sinh lý mà theo đó con người có
đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động. Việc quy định giới hạn độ tuổi lao động phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ, ở nước ta quy định
giới hạn độ tuổi lao động là từ tròn 15 tuổi đến tròn 55 tuổi (đối với nữ) và 60 tuổi (đối với
5
nam). Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số chiếm tỷ lệ cao trong dân số (thường là trên
50% ).
Hai là, nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế còn gọi là dân số hoạt động kinh tế.
Đây là số người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy nguồn nhân lực này không bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả
năng hoạt động kinh tế nhưng thực tế không tham gia hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có
khả năng làm việc song không muốn làm việc, đang học tập…)
Ba là, nguồn nhân lực dự trữ. Nguồn nhân lực này bao gồm những người trong độ tuổi
lao động nhưng vì những lý do khác nhau chưa tham gia hoạt động kinh tế song khi cần có
thể huy động được. Cụ thể là: Những người làm công việc nội trợ gia đình; những người
tốt nghiệp ở các trường phổ thông trung học và chuyên nghiệp song chưa có việc làm (là
nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng, là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên
và có trình độ học vấn cao); những người hoàn thành nghĩa vụ quân sự; những người trong
độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp…
* Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực người ta chia ra làm 3 loại:
Nguồn lao động chính: Là bộ phận nguồn nhân lực nằm trong độ tuổi lao động và là
bộ phận quan trọng nhất
Nguồn lao động phụ: Là bộ phận dân cư nằm ngoài độ tuổi lao động có thể và cần
phải tham gia vào nền sản xuất xã hội đặc biệt ở các nước kém phát triển. Ở nước ta xác
định số người dưới tuổi lao động thiếu từ 1 - 3 tuổi và trên tuổi lao động vượt từ 1 – 5 tuổi
thực tế có tham gia lao động được quy đổi ra lao động chính với hệ số quy đổi là 1/3 và 1/2
ứng với người dưới tuổi và trên tuổi.
Nguồn lao động bổ sung: Là bộ phận nguồn nhân lực được bổ sung từ các nguồn khác
(số người hết hạn nghĩa vụ quân sự, số người trong độ tuổi lao động thôi học ra trường, số
người lao động từ nước ngoài trở về…).
1.5 Vai trò nguồn nhân lực.
Theo sự phát triển của các chế độ xã hội và các quan điểm lao động, có 4 cách nhìn
nhận về vai trò người lao động trong sản xuất như sau:
- Người lao động là một công cụ lao động đặc biệt biết nói (chế độ nô lệ): Đây là cách
nhìn ấu trí và man rợ nhất mà cả xã hội loài người đều lên án.
6
- Người lao động là môt yếu tố của sản xuất, cho nên phải khai thác nó một cách tối đa
(chế độ Taylor với hiệu suất tối đa).
- Người lao động phải được đối xử bình đẳng như một cá thể (trường phái “quan hệ
lao động có tình cảm con người” của E.Mayo).
- Người lao động có tiềm năng lớn mà hiện nay mới chỉ được sử dụng một phần, cần
dược khai thác và làm cho phát triển.
Cách nhìn thứ tư là cách nhìn tân tiến nhất, khoa học nhất, xem sức lao động của con
người là một nguồn lực quý giá nhất trong các nguồn lực của sản xuất và phải biết động
viên nó. Cách nhìn này thể hiện rõ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với xã hội.
Thứ nhất, người lao động là một yếu tố cơ bản, là một đầu vào không thể thiếu được của
quá trình sản xuất, không có con người thì tư liệu sản xuất và công cụ lao động chỉ là vật
chết, chính yếu tố con người mói làm sống lại tư liệu sản xuất thông qua việc đưa chúng
tham gia vào quá trình sản xuất. Thứ hai, con người trong quá trình lao động là yếu tố duy
nhất đưa lại lợi ích kinh tế làm tăng của cải cho xã hội. Cuối cùng, con người khi tham gia
vào quá trình lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất và tinh thần nhằm thoả mãn nhu
cầu của bản thân và xã hội mà đó còn là quá trình tự hoàn thiện mình.
II Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
2.1. Các khái niệm.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết qủa nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực bỏ ra để
đạt được các kết qủa đó.
Phát triển nguồn nhân lực thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải phóng con
người. Đòi hỏi này cùng một lúc đặt ra hai yêu cầu: Phải tập trung trí tụê và nguồn lực cho
phát triển nguồn nhân lực, mặt khác, phải đồng thời thường xuyên cải thiện cải thiện và đổi
mới môi trường kinh tế, chính trị văn hoá, xã hội, giữ gìn môi trường tự nhiên của quốc
gia.
2.2. Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
2.2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tầm quốc gia.
2.2.1.1. Đầu tư cho hoạt động giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực phạm vi toàn quốc.
* Khái niệm.
7
Giáo dục là một hệ thống các hoạt động đào tạo và giảng dạy ở trường học nhằm trang
bị kiến thức và phát triển kỹ năng cho con người.
Đào tạo là một loạt các hoạt động được tổ chức có hệ thống để trang bị cho người lao
động nhận thức, kỹ năng tay nghề và động lực thực hiện công việc.
* Ý nghĩa của việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Giáo dục và đào tạo là hai khái niệm có mối quan hệ gắn kết với nhau. Giáo dục có
tính bao trùm hơn, chung hơn, nhưng lại ít thực tiến hơn. Còn đào tạo chỉ là một lĩnh vực
của giáo dục. Đầu tư vào giáo dục sẽ hướng con người đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, văn
minh hơn, và có ích hơn; con người sẽ biết yêu lao động, làm việc chân chính, hết mình.
Còn đầu tư vào hoạt động đào tạo giúp trang bị cho con người các nhận thức và kỹ năng
thực tiễn, giúp con người thực hiện tốt hơn các công việc hiện tại, đồng thời phát triển họ
lên một nấc cao hơn để đảm nhận trọng trách nặng nề hơn trong tương lai. Đầu tư cho giáo
dục đào tạo là hoạt động đầu tư có tác động trực tiếp làm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
* Nội dung.
Đối với một quốc gia hoạt động giáo dục đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các nội
dung: trang bị kiến thức phổ thông (giáo dục cơ bản) và trang bị kiến thức đại học và dạy
nghề (giáo dục chuyên nghiệp), và trang bị kiến thưc quản lý. Từ các nội dung đào tạo đó,
ta có các nội dung đầu tư tương ứng.
- Đầu tư cho giáo dục phổ thông là hoạt động đầu tư nhằm trang bị kiến thức cơ bản, phổ
thông để phát triển năng lực cá nhân cho mọi tầng lớp nhân dân. Trong nội dung này, có
các hoạt động đầu tư cụ thể như: đầu tư vào công tác xoá mù chữ, đặc biệt ở các vùng
nông thôn và miền núi; đầu tư cho hoạt động phổ cập giáo dục tiểu học; đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho việc học tập và giảng dạy ở các trường lớp…
- Đầu tư giáo dcụ đại học và dạy nghề là hoạt động đầu tư nhằm trang bị cho người học
kiến thức, kỹ năng tay nghề nhằm phục vụ cho một hoạt động lao động cụ thể. Các nội
dung đầu tư cụ thể là mở các trường lớp dạy nghề chất lượng cao, tổ chức hướng nghiệp
cho các học viên, xây dựng các cơ sở, nhà xưởng, phòng thí nghiệm cho học viên thử việc,
tổ chức tham quan thực tế…
- Đầu tư trang bị kiến thức quản lý đối với cán bộ: nhằm trang bị kiến thức về việc tuyển
chọn, duy trì, phát triển nguồn nhân lực cho cán bộ quản lý trong một tổ chức. Việc đầu tư
8
cho công tác quản lý là hết sức cần thiết, quản lý có tốt thì hoạt động mới hiệu quả, mới nề
nếp, mới phát huy được hết khả năng làm việc của công nhân viên. Đối với hoạt động này,
thì nội dung chính là mở các lớp đào tạo nâng cao khả năng giao tiếp, năng lực lãnh đạo và
khả năng thuyết phục…
2.2.1.2. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường làm việc cho người lao động.
* Khái niệm: Điều kiện lao động là tổng hợp của các nhân tố trong môi trường có tác động
lên con người trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong quá trình sinh hoạt của họ.
* Ý nghĩa: Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cải thiện điều kiện làm việc sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho cuộc sống và làm việc của mỗi con người. Khi cơ sở hạ tầng phát triển, cuộc sống
và công việc của con người sẽ diễn ra nhịp nhàng hơn, điều độ hơn, con người tiếp cận với
công việc dễ dàng hơn. Hoạt động đầu tư này gián tiếp thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân
lực của đất nước.
* Nội dung
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cải thiện điều kiện làm việc bao gồm những nội dung sau
- Đầu tư xây dựng trường học cho các vùng nông thôn, miền núi, dân tộc ít người mua sắm
trang thiết bị học tập tốt, phù hợp với điều kiện của các vùng.
- Đầu tư xây dựng các khu công nghiệp an toàn, sạch sẽ, hiện đại.
- Đầu tư vào hệ thống giao thông, đường sá.
- Đầu tư xây dựng các khu nhà ở cho người dân, người lao động.
2.2.1.3. Đầu tư vào công tác xã hội, chăm sóc sức khoẻ y tế con người.
* Đầu tư vào công tác xã hội:
Để phát triển nguồn nhân lực, mỗi quốc gia cần quan tâm đầu tư tới các nội dung xã
hội sau:
Bảo hiểm xã hội: Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính
sách xã hội mà Nhà nước đảm bảo trước pháp luật cho mỗi người dân nói chung và người
lao động nói riêng. Nó là sự bảo đảm về mặt thu nhập cho người lao động thông qua các
chế độ của bảo hiểm xã hội nhằm góp phần ổn định đời sống của người lao động và gia
đình họ. Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu của nhân dân lao động trong xã hội cần được đảm
bảo an toàn trong cuộc sống và làm việc. Nhà nước với vai trò là quản lý tài chính và tổ
chức thực hiện các hoạt động xã hội có trách nhiệm tổ chức hoạt động trên phạm vi toàn xã
9
hội để thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng của các tầng
lớp lao động trong xã hội.
- Cứu trợ xã hội: Là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng tiền, hiện vật
hoặc các điều kiện sinh sống khác với các hình thức khác nhau, cho thành viên của xã hội
khi họ gặp khó khăn, rủi ro hoặc bất hạnh trong cuộc sống, nhằm giúp họ tránh được
những khó khăn quá mức, bảo đảm cuộc sống và sớm có cuộc sống bình thường như của
cộng đồng.
- Ưu đãi xã hội: Là sự đãi ngộ đặc biệt về vật chất và tinh thần của Nhà nước, xã hội nhằm
đền đáp công lao đối với những người có nhiều cống hiến cho xã hội, làm lành mạnh hoá
quan hệ xã hội. Điều này thể hiện trách nhiệm của Nhà nước là xây dựng những hệ thống
biện pháp cụ thể về sự ưu tiên và cơ chế thực hiện sự ưu tiên đó. Mục tiêu của chính sách
này là đầu tư xã hội, nhằm tái sản xuất những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, duy trì
tinh thần yêu nước của con người Việt Nam, ổn định nếp sống, văn hoá và tình hình kinh
tế xã hội của đất nước hiện nay và trong tương lai.
- Xoá đói giảm nghèo: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu
cầu tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp xã hội…
Xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của Nhà nước, của các cấp, các ngành, các tổ chức xã
hội và của mọi người dân. Nhà nước thực hiện đầu tư xoá đói giảm nghèo qua các chương
trình hỗ trợ cho các đối tượng thuộc chính sách ưu đãi, những người ở vùng núi cao, đồng
bào dân tộc ít người, khu căn cứ cách mạng cũ, người tàn tật…
- Tạo việc làm cho người lao động: Đầu tư mở rộng sản xuất nhằm tạo mở việc làm, sử
dụng tối đa và có hiệu quả các nguồn nhân lực. Đầu tư vào vùng nghèo, vùng miền núi,
dân tộc. cho vay vốn từ quỹ quốc gia cho giải quyết việc làm.
* Đầu tư chăm sóc sức khoẻ, y tế cho người lao động.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho người lao động, bảo vệ môi trường lao động,
phòng chống bệnh nghề nghiệp không chỉ nhằm thể hiện sự quan tâm, chăm sóc sức
khỏe cho người lao động mà còn đóng một vai trò rất quan trọng trong thời kỳ hội nhập
kinh tế. Môi trường sạch, sức khỏe người lao động nâng cao là vấn đề then chốt để phát
triển sản xuất, tái tạo sức lao động và kéo dài tuổi thọ của người lao động, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội đất nước. Đầu tư chăm sóc sức khoẻ người lao động bao gồm những
nội dung sau:
10
- Xây dựng hệ thống các trung tâm y tế, bệnh viện với cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy
đủ, hiện đại, đáp ứng được nhu cầu bảo vệ sức khoẻ của mọi người.
- Đầu tư vào công tác phòng chống bệnh nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ thương
xuyên (đặc biệt với những ngành nghề độc hại).
- Đầu tư vào việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ rtrẻ em, giúp cho thế hệ trẻ phát
triển tốt về thể lực, lành mạnh về tinh thần, và do đó cũng giúp cho trẻ có đủ năng lực để
nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng qua giáo dục ở nhà trường.
2.2.2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
2.2.2.1. Đầu tư cho hoạt động tuyển dụng.
* Khái niệm: Tuyển dụng là quá trình tìm kiếm, thu hút và khuyến khích những cá nhân có
đủ các tiêu chuẩn thích hợp cả ở bên trong và bên ngoài doanh nghiệp tham gia ứng thí vào
các chức danh cần người trong doanh nghiệp. Những ứng viên hội đủ những tiêu chuẩn của
công việc có thể sẽ được tuyển dụng.
* Ý nghĩa của việc đầu tư cho hoạt động tuyển dụng: Đầu tư cho tuyển dụng có một ý
nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp, là yếu tố chủ yếu của chính sách quản lý nguồn nhân
lực, bởi vì nó ảnh hưởng quyết định đến tinhg trạng nhân lực của doanh nghiệp. Qua tuyển
dụng nhân viên mới, một mặt lực lượng lao động của nó được trẻ hoá, và mặt kia, trình độ
trung bình của nó được nâng lên. Do vậy, người ta có thể nói rằng: “tuyển dụng nhấn viên
là một sự đầu tư phi vật chất - đầu tư về con người”. Một chính sách tuyển dụng nhân viên
đúng đắn, được chuẩn bị chu đáo, tiến hành nghiêm túc có tiêu chuẩn xác đáng theo một
quy trình khoa học sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp chọn được những người tài giỏi và chắc
chắn sẽ góp phần mang lại những thành công cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu tiến hành
tuỳ tiện, thiếu nghiêm túc, không có tiêu chuẩn… chẳng những không mang lại lợi ích gì,
mà đôi khi còn là trung tâm gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ, xáo trộn đơn vị, và thậm chí
đến mức phải sa thải người này và để rồi lại phải tuyển người mới. Điều đó đã không
mang lại thành công cho doanh nghiệp, mà còn gây lãng phí rất nhiều lần cho doanh
nghiệp.
* Nội dung của đầu tư tuyển dụng trong doanh nghiệp:
- Đầu tư cho tuyển dụng bao gồm hai nội dung cơ bản, đó là đầu tư để thu hút, tìm kiếm
nhân tài vào doanh nghiệp và đầu tư để sắp xếp, phân bổ nhân lực vào các vị trí thích hợp
trong doanh nghiệp.
11
- Đầu tư để thu hút, tìm kiếm nhân tài bao gồm các hoạt động nghiên cứu thị trường lao
động, nghiên cứu đặc điểm, yêu cầu công việc của các vị trí cần tuyển dụng, và các hoạt
động quảng cáo nhằm thông tin rộng rãi đến người lao động để nhiều người biết đến việc
tuyển dụng.
- Đầu tư để sắp xếp, phân bổ nhân lực vào các vị trí thích hợp trong doanh nghiệp bao gồm
các hoạt động như xem xét năng lực, trình độ chuyên môn và năng khiếu của nhân viên,
sắp xếp vào các vị trí thích hợp, nhằm khai thác tối đa khả năng làm việc của người lao
động.
2.2.2.2. Đầu tư cho hoạt động đào tạo trong doanh nghiệp.
* Khái niệm: Đào tạo nguồn nhân lực trong tổ chức là các hoạt động nhằm nâng cao năng
lực cho người lao động trong việc đóng góp vào hoạt động của tổ chức.
* Ý nghĩa của việc đầu tư vào hoạt động đào tạo nguồn nhân lực: Trong một doanh nghiệp,
không phải ai cũng có điều kiện để học tập, nghiên cứu và không phải ai cũng thông thạo
các kỹ năng công việc của bản thân mình. Bởi vậy, việc đầu tư cho hoạt động đào tạo trong
doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Nó sẽ tạo điều kiện giúp cho mọi người lao động có cơ
hội học tập, có điều kiện để bồi dưỡng, cải thiện kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng của bản
thân, từ đó nhận thức tốt hơn mục tiêu của doanh nghiệp, có khả năng thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ của họ cũng như của doanh nghiệp.
* Nội dung cụ thể của đầu tư cho hoạt động đào tạo trong doanh nghiệp.
- Đầu tư cho đào tạo nghề cho công nhân: Đầu tư đào tạo tại chỗ: Đối với những công việc
đơn giản, có thể đào tạo bằng cách thuê ngoài hoặc phân công những chuyên gia, những
cán bộ, những công nhân giỏi để hướng dẫn các thợ học nghề. Tạo điều kiện về thời gian
và cơ sở vật chất cho việc dạy và học. Đầu tư mở rộng các lớp cạnh doanh nghiệp: Các lớp
cạnh doanh nghiệp là những lớp dạy nghề quy mô nhỏ, chỉ đào tạo các ngành nghề mang
tính chất riêng biệt của doanh nghiệp và những nghề này đòi hỏi trình độ lành nghề cao,
tương đối phức tạp. Cử công nhân viên đi học các trường lớp dạy nghề, đi học các trường
lớp chính quy để nâng cao trình độ
- Đầu tư cho đào tạo cán bộ công nhân viên chức: Vói những nội dung đào tạo cơ bản như:
đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo nhiều chức năng, đào tạo hoạt động theo nhóm,
và đào tạo tính sáng tạo
12
- Đầu tư cho đào tạo cấp quản lý: Đào tạo cho các cấp quản lý, lãnh đạo trong doanh
nghiệp về các nội dung sau: đào tạo kỹ năng tư duy, kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng tổ chức, lãnh đạo. Để thực hiện tốt các nội dung đào tạo này cần có sự đầu tư theo
chiều sâu, như mở các lớp quy mô nhỏ nhưng chất lượng cao, đào tạo chuyên sâu…
2.2.2.3. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc trong doanh nghiệp.
* Khái niệm: Cải thiện điều kiện lao động là đưa các nhân tố đó đạt trạng thái tối ưu để
một mặt chúng không ảnh hưởng xấu đến hoạt động sống của con người, và mặt kia có tác
động thúc đẩy và củng cố khả năng làm việc của con người.
* Nội dung: Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động bao gồm những nội
dung sau:
- Đầu tư cải thiện chỗ làm việc để có được đầy đủ các điều kiện vật chất kỹ thuật an toàn,
đảm bảo vệ sinh và sức khoẻ cho người lao động: Đảm bảo tốt các điều kiện về an toàn lao
động và vệ sinh lao động như luật lao động đã ban hành (chương 9 và 10 từ điều 95 đến
118). Thay thế các thiết bị, các quy trình công nghệ phát sinh các yếu tố độc hại. Tách công
nhân ra khỏi môi trường độc hại bằng cách cơ khí hoá, tự động hoá sản xuất. Sử dụng các
phương tiện phòng hộ cá nhân để giảm bớt mức độ tác động của các nhân tố đến cơ thể
con người
- Đảm bảo các yêu cầu về thẩm mỹ và tâm lý lao động,
- Hạn chế tác hại bằng cách tăng cường sức khoẻ cho người lao động.
Cải thiện điều kiện lao động là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động
và bảo vệ sức khoẻ cho người lao động cũng như góp phần nâng cao sự hứng thú trong lao
động của con người.
- Đầu tư bố trí không gian sản xuất và làm việc phù hợp vói thẩm mỹ công nghiệp. Sắp xếp
vị trí, lựa chọn kiểu dáng của các trang thiết bị với tính thẩm mỹ cao.
- Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý: Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là sự luân
phiên một cách hợp lý giữa các kỳ làm việc và điều kiện lao động của người lao động. Chế
độ này phải do các nhà Tâm – Sinh lý lao động, các nhà Vệ sinh lao động và các chuyên
gia về Tổ chức lao động khoa học phối hợp nghiên cứu và xây dựng
- Làm hoà nhập người lao động: là quá trình được thiết kế để giúp đỡ những nhân viên mới
thích nghi và phù hợp với bộ phận hay tổ chức mà họ làm việc.
2.2.2.4. Trả công người lao động.
13
* Khái niệm
Trong thực tế sản xuất và xã hội, khái niệm tiền công, tiền lương và thành phần của
chúng được quan niệm rất đa dạng, khác nhau. Có nhiều tên gọi và khái niệm để diễn đạt
sự trả công trong lao động như: tiền công, tiền lương, thù lao lao động, thu nhập lao
động…
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất luận
tên gọi hay cách tính như thế nào, mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng thoả
thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc băng pháp luật theo một hợp
đồng lao động được viết ra hay bằng miệng
Tiền công, theo nghĩa rộng, bao hàm tất cả các hình thức bù đắp mà doanh nghiệp trả
cho người lao động. Nó gồm có tiền lương, tiền thưởng và các hình thức trả tiền khác.
Nhưng theo cách dùng phổ biến hiện nay thì thuật ngữ “tiền công” chỉ được xem để trả thù
lao theo giờ cho những người lao động mà không có giám sát quá trình lao động đó. Còn
tiền lương là số tiền trả cho người lao động theo một thời gian nhất định (ngày, tuần,
tháng, năm…).
Hiện nay, theo quan điểm của cải cách tiền lương năm 1993 (theo nghị định 25, 26
/CP ban hành ngày 23-5-1993), khi công nhận sức lao động là một hàng hóa thì “tiền lương
là giá cả của sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động phù hợp với quan hệ cung và cầu vè sức lao động trong nền kinh
tế thị trường”.
Ngày nay, khi xã hội càng phát triển ở trình độ cao, thì cuộc sống của con người đã và
đang được cải thiện một cách rõ rệt, trình độ văn hoá chuyên môn của người lao động
được nâng cao không ngừng, thì ngoài tiền lương cơ bản, phụ cấp, thưởng và phúc lợi,
người lao động còn muốn được có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp, được thực sự kính
trọng và làm chủ trong công việc… thì tiền lương còn có ý nghĩa như một khoản tiền đầu
tư cho người lao động để không ngừng phát triển như một cách toàn diện.
* Vai trò và ý nghĩa của việc trả công người lao động.
Trả công cho người lao động cũng là một hoạt động đầu tư hết sức cần thiết để phát
triển nguồn nhân lực về mọi mặt.
- Trả công người lao động có vai trò thúc đẩy quá trình tái sản xuất sức lao động. Sau mỗi
quá trình lao động sản xuất, sức lao động bị hoa mòn, do đó phải có sự bù đắp hao phí sức
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét