+ Chỉ riêng 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.257
DSĐH chiếm 52% so với toàn quốc,
+ Chỉ 10 tỉnh có nhiều DSĐH nhất: Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ,
Đồng Nai, Nam Định, Thanh Hoá, Đồng Tháp, Bình Dương, Nghệ An, Thừa
Thiên-Huế, và Đà Nẵng có 9.143 DSĐH chiếm 65,6% so với toàn quốc.
+ Trong khi 10 tỉnh có ít DSĐH nhất: Kon Tum (11), DăkNong (21), Lai
Châu (21), Điện Biên (30), Lào Cai (32), Bắc Cạn (33), Bình Phước (34),
Ninh Thuận (37), Hậu Giang (43), Bình Thuận (50) chỉ chiếm 2,2% so với
toàn quốc.
Bảng 1: Thống kê số dược lượng sỹ đại học tại các địa phương
Năm
Dược sỹ
2005 2006 2007 2008
DS sau ĐH (1) 858 963 1089 1146
DSĐH (2) 8509 9458 9075 12.777
Tổng1+2 9367 10421 10164 13.941
Bình quân số DSĐH/vạn dân 1.1 1.2 1.19 1,5
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ báo cáo của các Sở Y tế
Như vậy rõ ràng bên cạnh tình trạng thiếu số lượng tuyệt đối về DSĐH thì
tình trạng phân bố không đồng đều DSĐH đang là tình trạng đáng báo động.
Những cơ chế chính sách để đào tạo, thu hút DSĐH về nông thôn, miền núi và
những vùng miền khó khăn cần được soạn thảo, ban hành để trở thành những giải
pháp quan trọng cho vấn đề nhân lực dược địa phương.
II. Công tác cung ứng thuốc phòng và chữa bệnh cho nhân dân
Cung ứng đủ thuốc có chất lượng cho công tác phòng bệnh và chữa bệnh
cho nhân dân vẫn luôn là mục tiêu phấn đấu của Ngành Dược, đặc biệt ưu tiên đảm
bảo đủ thuốc cho phòng chống dịch bệnh, thiên tai, lũ lụt, thảm hoạ.
Bảng 2: Số liệu về sản xuất, nhập khẩu và sử dụng thuốc qua các năm
Năm Tổng trị giá tiền
thuốc sử dụng
(1.000USD)
Trị giá sản xuất
trong nước
(1.000USD)
Trị giá thuốc
nhập khẩu
(1.000USD)
Bình quân tiền
thuốc đầu người
(USD)
2001 472.356 170.390 417.361 6,0
2002 525.807 200.290 457.128 6,7
2003 608.699 241.870 451.352 7,6
2004 707.535 305.950 600.995 8,6
2005 817.396 395.157 650.180 9,85
5
Năm Tổng trị giá tiền
thuốc sử dụng
(1.000USD)
Trị giá sản xuất
trong nước
(1.000USD)
Trị giá thuốc
nhập khẩu
(1.000USD)
Bình quân tiền
thuốc đầu người
(USD)
2006 956.353 475.403 710.000 11,23
2007 1.136.353 600.630 810.711 13,39
2008 1.425.657 715.435 923.288 16,45
Nguồn: Cục Quản lý dược
1. Công tác sản xuất thuốc trong nước
Bảng 3: Số liệu về triển khai GPs
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 31/03/2009
GMP 18 25 31 41 45 57 66 74 89 92
GLP 0 6 16 26 32 43 60 74 88 92
GSP 0 3 8 11 30 42 64 79 108 113
GDP 11 228 570
GPP 7 312 444
Các doanh nghiệp đã phải khắc phục nhiều khó khăn trong đầu tư xây dựng
các dây chuyền sản xuất thuốc theo nguyên tắc tiêu chuẩn "Thực hành tốt sản xuất
thuốc" (GMP) theo đúng lộ trình của Bộ Y tế đề ra là : đến 30/6/2008 tất cả các
doanh nghiệp sản xuất thuốc tân dược phải đạt GMP. Kết quả đến hết năm 2008,
cả nước có 89 nhà máy đạt GMP (có 22 nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài, trong
đó có 15 nhà máy 100% vốn đầu tư nước ngoài, 7 nhà máy liên doanh)
6
Biểu đồ 1: Cơ cấu các nhà máy sản xuất thuốc
Nhìn vào Bảng thống kê trên, thấy rằng trị giá thuốc sản xuất trong nước ngày
càng tăng:
- Năm 2006 đạt 475,403 triệu USD tăng 20% so với năm 2005
- Năm 2007 đạt 600,63 triệu USD tăng 26,34% so với năm 2006.
- Năm 2008, thuốc trong nước sản xuất đạt 715,435 triệu USD đáp ứng
50,18% nhu cầu thuốc sử dụng.
Thuốc sản xuất trong nước đang cố gắng thoát ra khỏi những danh mục hoạt
chất generic, hướng tới những nhóm thuốc đang tăng tỷ lệ sử dụng, thuốc chuyên
khoa (như : thuốc tim mạch, tiểu đường, thần kinh, nội tiết, ). Các dạng bào chế
cũng được phát triển hơn (như : thuốc tác dụng kéo dài, thuốc tiêm đông khô,
thuốc sủi bọt, ).
Riêng đối với sản xuất vắc xin sinh phẩm y tế, hiện nay có 06 cơ sở tham gia
sản xuất Vắc xin- sinh phẩm y tế, trong đó có 04 cơ sở có dây chuyền đạt GMP.
Tuy nhiên đã đáp ứng được phần lớn các vắc xin trong chương trình tiêm chủng
mở rộng. Trị giá tiền trong Chương trình tiêm chủng mở rộng của vắc xin sản xuất
trong nước năm 2008 là 74,6 tỷ đồng (chiếm 79,15%) đã đáp ứng được hầu hết các
văc xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng (trừ văc xin sởi được viện trợ). Đa
số vắc xin sản xuất trong nước là đơn giá trong khi hiện nay theo khuyến cáo của
WHO là dùng vắc xin đa giá, bởi vậy, nguồn nhập khẩu vắc xin sinh phẩm cho nhu
cầu tiêm chủng của nhân dân chiếm một tỷ lệ lớn. Mặc dù đầu tư còn thấp, nhưng
thực tế các cơ sở sản xuất vắc xin- sinh phẩm y tế trong nước đã sản xuất để cung
ứng hầu hết các vắc xin cho Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia với năng
lục dư thừa, do đó cần có nhìn nhận những cố gắng của lĩnh vực này để có giải
pháp phát triển trong thời gian tới.
7
Biểu đồ 2: Tổng trị giá tiền thuốc sử dụng và Trị giá thuốc sản xuất trong nước
2. Công tác xuất- nhập khẩu thuốc
2.1. Về nhập khẩu :
Năm 2008: 923,288 triệu USD tăng 13,8% so với năm 2007, trong đó:
- Nguyên liệu: 163,536 triệu USD
- Thành phẩm: 759,752 triệu USD
Do ngành dược Việt Nam chủ yếu sản xuất thuốc generic nên vẫn còn nhiều
loại thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc mới vẫn phải nhập khẩu, đặc biệt là thuốc
hiếm nhập khẩu cho nhu cầu điều trị tại bệnh viện.
Những thuốc mà nhà nhập khẩu xây dựng giá không hợp lý, Cục QLD cho
nhập khẩu song song để đảm bảo cạnh tranh về giá thuốc, hạn chế tình trạng độc
quyền tăng giá. Các thuốc ít hoặc không có SĐK do nguyên nhân thương mại,
CQLD điều chỉnh bằng xét đơn hàng nhập khẩu không SĐK, do vậy vẫn đảm bảo
cung ứng đủ thuốc cho nhu cầu điều trị của nhân dân, đặc biệt trong đợt bão lụt,
dịch bệnh ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, tiến hành các công việc
liên quan đến thuốc viện trợ của chương trình HIV
2.2. Về xuất khẩu:
Hầu hết các doanh nghiệp đều gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế thế giới. Tuy nhiên năm 2008 trị giá tiền thuốc xuất khẩu đạt 33,32 triệu
USD (nguồn Tổng Cục Hải quan), thấp hơn 17,1% so với kế hoạch năm 2008 (39,0
triệu), trong đó các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty dược Việt Nam là những
doanh nghiệp lớn đóng góp nhiều nhất cho xuất khẩu, đạt 18,96 triệu USD. Các
doanh nghiệp đã cố gắng duy trì củng cố và phát triển các thị trường xuất khẩu
truyền thống như khu vực Châu Âu: Nga, Ukraina, Moldova, một số nước Đông
Âu cũ; khu vực Châu Á: Lào, Campuchia, Myanma, Malayxia; khu vực Châu Phi:
Congo, Nigeria
3. Công tác thu hút đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài vào dược phẩm đến 31/12/2008 có 37 dự án (chưa có thêm
dự án đầu tư nào so với năm 2007), trong đó có 25 dự án đi vào hoạt động với tổng
số vốn đăng ký 282,6 triệu USD (tăng hơn 3 dự án đã đi vào hoạt động và 27,6
triệu USD về tổng số vốn đăng ký so với 2007), trong đó có 22 dự án đầu tư sản
xuất thuốc, 03 dự án đầu tư vào dịch vụ bảo quản thuốc). Đây là con số trên là rất
khiêm tốn so với tổng đầu tư nước ngoài nói chung ở Việt Nam. Trong tổng số 89
nhà máy đạt GMP thì đã có 22 nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài với 192,9 triệu
USD đầu tư, có 40 dây chuyền sản xuất ra 158,273 triệu USD, chiếm khoảng 22%
tổng trị giá sản xuất thuốc của các nhà máy dược phẩm trong cả nước.
4. Công tác đăng ký thuốc
Công tác đăng ký thuốc là khâu quan trọng trong hoạt động của CQLD góp
phần làm ổn định và phát triển nguồn cung ứng thuốc của Việt Nam, đáp ứng kịp
thời nhu cầu điều trị cho nhân dân, kể cả dịch bệnh, thiên tai, … Trong lộ trình hoà
hợp với các nước trong khu vực ASEAN, Cục QLD đang khẩn trương triển khai
hoà hợp về quy chế, bộ hồ sơ kỹ thuật chung ASEAN, các hướng dẫn kỹ thuật như
8
sinh khả dụng, tương đương sinh học, độ ổn định, thử lâm sàng, … để đảm bảo
những cam kết của Việt Nam với các nước trong khu vực.
4.1. Tình hình đăng ký thuốc
Hiện tại, với trên 300 đơn vị tham gia sản xuất thuốc trong nước, là một lực
lượng đủ lớn để góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp dược Việt Nam.
Tuy nhiên, có sự chênh lệch đáng kể giữa các doanh nghiệp; mức đầu tư còn thấp;
mặt bằng về khoa học- phát triển- nghiên cứu còn thấp hơn so với các nhà sản xuất
dựoc phẩm nước ngoài.
Bảng 4: Tổng hợp số đăng ký thuốc còn hiệu lực tính đến 31/12/2008
Chỉ tiêu
Thuốc
Tổng số ĐK thuốc
còn hiệu lực
Số hoạt chất Tỷ lệ hoạt chất/tổng số
SĐK
Thuốc trong nước 9.727 491 ~1 hoạt chất/19 số ĐK)
Thuốc nước ngoài 10.339 909 ~1 hoạt chất/11 số ĐK)
Nguồn: Cục Quản lý dược
Bảng 5: Các hoạt chất thuốc trong nước có nhiều SĐK còn hiệu lực nhất
Bảng 6: Các hoạt chất thuốc trong nước có nhiều SĐK nhất trong năm 2008
- Trong năm 2008, có 1.970 thuốc trong nước được cấp SĐK. Đăng ký thuốc
9
trong nước vẫn tập trung đăng ký các thuốc nhóm hạ nhiệt- giảm đau
(Paracetamol), kháng sinh. Chỉ với 20 hoạt chất đã chiếm 16,34% số thuốc được
cấp đăng ký. Ngoài ra một số hoạt chất khác như: Tadalafil, Fexofenadil cũng
được nhiều nhà máy sản xuất. Với 20 nhà sản xuất có nhiều số đăng ký nhất chiếm
45,3% tổng SĐK thuốc sản xuất trong nước được cấp.
- Đăng ký thuốc nước ngoài: Thuốc kháng sinh và kháng viêm cũng là nhóm
thuốc có nhiều SĐK nhất. Với 20 hoạt chất có nhiều SĐK nhất đã chiếm 19% tổng
SĐK được cấp. Một số hoạt chất đăng ký nhiều trong năm 2008 là: Cefixim,
Cefpodoxim, Rabeprazole, ).
4.2. Cơ cấu mặt hàng thuốc theo số đăng ký
Biểu đồ 3: Các nhóm thuốc trong nước và nước ngoài đăng ký trong năm 2008
Bảng 7: 20 Nhà sản xuất trong nước có nhiều SĐK nhất trong năm 2008
- 20 NSX chiếm 52,3% tổng số SĐK thuốc trong nước.
10
Bảng 8: Số liệu đăng ký thuốc trong nước phân loại tân dược và đông dược
Tổng số đăng ký SĐK tân dược Tỷ lệ % SĐK Đông dược Tỷ lệ%
9.727 7.923 81,46% 1.804 18,54%
Nguồn: Cục Quản lý dược
Nhìn vào bảng thống kê trên thấy rằng: Các đơn vị sản xuất đã phát triển đăng
ký thuốc ở cả 2 lĩnh vực tân dược và đông dược. Từ đó đáp ứng được nhu cầu điều
trị theo tính đa dạng đông- tây y. Tỷ lệ tân dược chiếm gấp hơn 3 lần đông dược
phản ánh đúng thực trạng dùng thuốc của người dân.
Bảng 9: Số liệu SĐK thuốc trong nước theo nhóm dược lý tính đến 31/3/2009
Nhóm dược lý Số lượng SĐK
Các loại khác (Đông dược + không phân loại được) 2539
Chống nhiễm khuẩn - ký sinh trùng 2306
Hạ nhiệt - giảm đau - chống viêm phi steroid 1221
Vitamin và thuốc bổ 1111
Thuốc đường hô hấp 433
Thuốc tác dụng trên dạ dày, ruột 424
Thuốc tim mạch 251
Chống dị ứng 216
Thuốc ngoài da ( ngứa, nhiễm khuẩn, viêm ngứa ) 200
Thuốc tác dụng đến máu 194
Hormon và cấu trúc hormon 150
Thuốc vè mắt 140
Thuốc gan - mật 119
Thuốc tâm thần, an thần 94
Thuốc dãn cơ và ức chế Cholinesterase 66
Dung dịch điều chỉnh nước và điện giải 52
Thuốc tai mũi họng và răng 31
Chống động kinh 30
Thuốc lợi tiểu 25
Chống đau nửa đầu 14
Chống độc 9
Thuốc sát trùng, tẩy uế 6
Tê - mê 4
Thuốc chống ung thư 2
Huyết thanh Globulin miễn dịch 1
So với những năm trước đây, thuốc sản xuất trong nước đã xuất hiện nhóm
thuốc tim mạch, tâm thần, chống ung thư, thuốc hormon, thuốc tê mê, thuốc tác
dụng đến máu, là một chuyển hướng rất cần khuyến khích. Tuy nhiên, thuốc
11
kháng sinh, hạ nhiệt giảm đau và vitamin vẫn chiếm tỷ lệ rất cao so với số lượng ít
ỏi của thuốc chuyên khoa. Việc nghiên cứu và phát triển các nhóm thuốc đáp ứng
mô hình bệnh tật ở Việt Nam trong những năm tới đây cần được các nhà sản xuất
tập trung đầu tư nhiều hơn nữa.
Dự án sản xuất nguyên liệu kháng sinh Cephalosporin của Tổng Công ty dược
Việt Nam ( tại công ty Mekophar) và một số đơn vị đang chuẩn bị triển khai là một
nỗ lực lớn đóng góp cho Ngành Dược và đang được Chính phủ rất quan tâm. Bộ Y
tế sẽ xem xét đề nghị của các doanh nghiệp trình Chính phủ và các Bộ, ngành
những ưu đãi thiết thực, hỗ trợ cho những dự án mang tính chiến lược, làm giảm sự
lệ thuốc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài.
4.3. Tình hình đăng ký vắc xin, sinh phẩm y tế
Tính đến ngày 31/03/2009 có 68 SĐK Vắc xin và 278 SĐK sinh phẩm y tế
còn hiệu lực lưu hành tại Việt Nam, trong đó có hầu hết các loại vắc xin cho
Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Trong trường hợp cần đáp ứng nhu
cầu tiêm phòng, Bộ Y tế cho nhập khẩu vắc xin sinh phẩm y tế chưa có số đăng ký,
đáp ứng nhu cầu tiêm chủng của nhân dân, làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và góp phần
quan trọng vào công tác y tế dự phòng.
5. Công tác quản lý giá thuốc
Cùng với diễn biến phức tạp của nền kinh tế, giá cả hàng hoá cũng vô cùng
phức tạp. Do đó công tác quản lý giá thuốc vẫn được Lãnh đạo Bộ Y tế chỉ đạo là
một lĩnh vực được quan tâm hàng đầu, theo đúng các chủ trương của Nhà nước và
chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ.
- Với việc ban hành Quyết định số 24/2008/QĐ-BYT ngày 11/7/2008 về quy
định tổ chức và quản lý nhà thuốc bệnh viện, đã có thêm cơ sở pháp lý về quản lý
giá thuốc hướng dẫn Luật Dược.
- Cục QLD thường xuyên phối hợp với Vụ Chính sách thị trường trong nước
và Tổ điều hành thị trường trong nước theo dõi diễn biến tình hình thị trường đề
xuất các giải pháp phù hợp để bình ổn thị trường dược phẩm; Chuẩn bị báo cáo 10
ngày/lần, 6 tháng, 1 năm và tham gia họp tổ điều hành thị trường trong nước hàng
tháng; Báo cáo Chính phủ và gửi công văn đến các Báo, Đài về tình hình thị
trường dược phẩm hàng tháng, 06 tháng, 1 năm.
- Công khai, minh bạch giá thuốc trên website của Cục Quản lý dược : Giá
thuốc trúng thầu năm 2008 để làm cơ sở các cơ sở khám chữa bệnh tham khảo khi
tiến hành xây dựng kế hoạch đấu thầu, giá thuốc để các Sở Y tế tham khảo khi xem
xét giá kê khai lại của các cơ sở sản xuất thuốc trong nước. Đây cũng là giá bán
buôn thực tế để người dân lựa chọn mua thuốc tại cơ sở bán lẻ với giá hợp lý; Giá
thuốc nhập khẩu thực tế vào thị trường Việt Nam năm 2008 để các cơ sở bán buôn,
bán lẻ thuốc lựa chọn nhà cung ứng với giá phù hợp và cũng để người dân phối
hợp cơ quan quản lý giám sát việc kê khai giá thuốc của các doanh nghiệp kinh
doanh thuốc nhập khẩu; Công khai giá thuốc nhập khẩu tiến hành kê khai lại theo
12
hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 11/2007/TTLT- BYT- BTC- BCT để làm căn
cứ cho các đơn vị tiến hành thanh tra, kiểm tra.
- Sở Y tế các tỉnh, thành phố đã thực hiện tương đối tốt chức năng giám sát
giá thuốc, góp phần quan trọng đảm bảo bình ổn thị trường dược phẩm, trong đó
có giá thuốc cung ứng cho bệnh viện.
Hình 1: So sánh chỉ số giá một số nhóm hàng trọng yếu 2008
- Thị trường dược phẩm năm 2008: tương đối ổn định và không có sự tăng
giá đột biến, bất hợp lý. Đây cũng là điểm nổi bật trong công tác chỉ đạo, điều hành
về giá thuốc.
- Chỉ số giá nhóm hàng dược phẩm, y tế năm 2008 là 9,43% nếu so sánh với
chỉ số giá tiêu dùng chung của xã hội CPI là 47,71% (giảm hơn so với năm 2007
là 55%, năm 2006 là 65%) và vẫn tiếp tục đứng 7/10 về chỉ số giá của các nhóm
hàng chủ yếu.
- Tổng kết công tác y tế năm 2008, công tác bình ổn giá thuốc được xếp là
một trong 10 sự kiện ngành y tế.
6. Công tác quản lý thuốc gây nghiện và thuốc hướng tâm thần
- Công tác quản lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần vẫn giữ được nề
nếp của nhiều năm nay, đảm bảo quản lý chặt chẽ theo các Công ước quốc tế,
không để thất thoát vào các mục đích bất hợp pháp; thực hiện báo cáo, dự trù, sử
dụng, nhập khẩu thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần, tiền chất với INCB theo
đúng quy định.
- Các cơ sở đã thực hiện các quy định về nhập khẩu, mua, bán, bảo quản, cấp
phát thuốc theo quy định tại Quy chế quản lý thuốc gây nghiện, Quy chế quản lý
thuốc hướng tâm thần. Dự trù Thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần, tiền chất
dùng làm thuốc theo đúng qui định hiện hành. Việc kiểm tra các cơ sở sản xuất,
kinh doanh, sử dụng thực hiện các quy định tại Quy chế quản lý thuốc gây nghiện,
Quy chế quản lý thuốc hướng tâm thần được tiến hành thường xuyên hơn
13
- Năm 2008 Cục QLD đã cấp 126 giấy phép nhập khẩu thuốc và nguyên liệu
thuốc gây nghiện; 38 giấy phép nhập khẩu thuốc và nguyên liệu tiền chất làm
thuốc; 90 giấy phép nhập khẩu thuốc và nguyên liệu thuốc hướng thần; Đảm bảo
thực hiện hợp tác quốc tế và hợp tác với các cơ quan điều tra, hải quan, ủy ban
phòng chống ma túy, các bộ ngành khác trong các vấn đề liên quan đến quản lý
thuốc gây nghiện, hướng tâm thần; Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các
quy định về quản lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, tiền chất và thuốc viện
trợ tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ngoài ra, còn tham gia theo dõi
việc thực hiện triển khai Quyết định số 2406/QĐ-BYT ngày 02/7/2008 của Bộ
trưởng Bộ Y tế ban hành Quyết định tạm thời về việc hỗ trợ cắt cơn cai nghiện ma
tuý Cedemex và Bông Sen trong quá trình cai nghiện ma tuý tại gia đình và cộng
đồng, tham gia các hoạt động triển khai thực hiện đề án thí điểm điều trị nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone.
7. Mạng lưới cung ứng thuốc
Bảng 10: Mạng lưới cung ứng thuốc cả nước qua các năm
Loại hình 2006 2007 2008
Số Doanh nghiệp trong nước 1.163 1.330 1.336
Số Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (đã triển khai hoạt động) 15 22 37
Chi nhánh công ty tại các tỉnh 127 164 160
Tổng số khoa dược và các trạm chuyên khoa 976 977 1.012
Tổng số quầy bán lẻ 39.319 39.016 39.172
Tổng số TYT xã chưa có quầy thuốc 932 941 1.090
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ báo cáo của các Sở Y tế
Trong xu thế toàn cầu hoá và áp lực của hội nhập WTO, đặc biệt là việc mở
cửa thị trường xuất nhập khẩu cho thương nhân nước ngoài xuất nhập khẩu và
quyền bán lẻ của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. Việc sắp xếp lại hệ thống
lưu thông phân phối thuốc, nâng cao chất lượng của các cơ sở bán lẻ và tổ chức lại
thành một hệ thống bán lẻ chuyên nghiệp có ảnh hưởng quan trọng đến định hướng
phát triển của Ngành Dược Việt Nam trong tương lai. Mặc dù Việt Nam chưa cam
kết cho thương nhân nước ngoài tổ chức bán lẻ tại Việt Nam, nhưng sự lớn mạnh
và chuyên nghiệp của hệ thống phân phối nói chung và hệ thống bán lẻ nói riêng
ngoài ý nghĩa tăng cường năng lực phục vụ nhân dân còn có ý nghĩa là tác động trở
lại và có thể đóng vai trò quyết định đầu vào ở khâu sản xuất và nhập khẩu thuốc,
mà lâu nay các công ty đa quốc gia chiếm ưu thế.
Do đó, bên cạnh việc tiếp tục thúc đẩy quá trình GSP và GDP trong mục tiêu
hoàn chỉnh hệ thống 5GP’s đảm bảo chất lượng thuốc từ nguyên liệu đầu vào- sản
xuất- lưu thông- sử dụng, năm 2008 Bộ Y tế (Cục Quản lý dược) đẩy mạnh việc
triển khai thực hiện nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành tốt nhà thuốc GPP. Ngày
25.01.2008 Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Chỉ thị số 01/2008/QĐ-BYT về việc triển
khai áp dụng lộ trình thực hiện nguyên tắc, tiêu chuẩn GPP, đặc biệt với đối tượng
là nhà thuốc bệnh viện.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét