Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

Hội người cao tuổi tỉnh sơn la

chính là Say Páo, Seo Mây và Vàng Giống) được lồng tiếng Mông, tuy ngắn song tiết tấu
nhanh, hài hước khiến đồng bào rất thích thú theo dõi. Sau khi xem xong phim Say Páo tỉnh
dậy, bà con còn được xem tiếp vài bộ phim thế giới động vật, nói về những loài vật có
trong các khu rừng bà con đang sống và hướng dẫn bà con biết bảo vệ thú rừng như những
người bạn. Bình thường bà con đi ngủ từ khoảng 8 giờ tối, tối đó thức đến gần 12 giờ đêm,
xem hết phim này đến phim khác. Dù anh em đội CBLĐ khá mệt, lại có quy định chỉ chiếu
đến 10 giờ đêm, song chẳng mấy khi vào được đến đây nên phải chiều theo nhu cầu cho bà
con "đã mắt".
KHI CHIẾU BÓNG LƯU ĐỘNG HỒI SINH
Cũng như những đội CBLĐ khác trên cả nước, những đội CBLĐ ở Sơn La đã trải
qua một quãng thời gian dài bi đát khi điện ảnh Việt Nam rơi vào khó khăn hồi đầu những
năm 90 của thế kỷ trước. Ở nhiều nơi vào thời kỳ ấy, các đội CBLĐ đã giải tán không để
lại dấu tích và đội chiếu bóng ở Phù Yên cũng không là ngoại lệ. Khi đội chiếu bóng giải
tán, người về quê, người xin chuyển ngành, người nghỉ không lương Giờ đây, Nhà nước
đã bao cấp 100% để đội CBLĐ hồi sinh.
Huyện Phù Yên khó khăn cả về kinh tế lẫn đời sống văn hóa tinh thần, các thế lực
xấu tích cực tuyên truyền trái phép, nên việc hồi sinh các đội CBLĐ là rất cần thiết. Tuy
nhiên, để kiếm sống, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ, các anh phải kiếm sống thêm bằng
đủ các nghề, kể cả việc phải tranh thủ mua lợn, mua gà của bà con đem ra ngoài huyện cho
vợ bán lại kiếm lời.
Cũng như các huyện khác, lãnh đạo Phù Yên đã vạch ra nhiều chương trình phát
triển như sẽ kéo điện về 100% số xã, phấn đấu mỗi xã sẽ có một điểm sinh hoạt văn hóa.
Tuy nhiên, để tất cả các bản xa xôi, nằm sâu trong rừng có điện còn là một tương lai dài.
Các đội CBLĐ sẽ còn phải tiếp tục vất vả ngược xuôi, khi mà điện chưa về tới nơi, khi bà
con còn đói thông tin, thiếu hiểu biết. Và dù tiền lương thì chẳng ngành nào thấp bằng
nhưng anh em đều không kêu ca, bởi vì đã trót gắn với cái ngành chiếu bóng thì ở đâu cũng
vất vả, cũng nghèo, chỉ có lòng hăng say, yêu nghề thì mới tồn tại được.
Anh Ngô Quốc Tuấn kể: "Còn nhớ một ngày đội chiếu phim của mình về phục vụ đồng bào bản Mường Ca, xã Mường
Bang. Từ huyện vào đến xã 50 cây số, từ xã vào đến bản là 10 cây số đi bộ. Vào đến bản trời xẩm tối, bà con tề tựu đông đủ, đã làm
thịt một con bò từ chiều và chuẩn bị 3 can rượu 20 lít để chờ các cán bộ huyện lên chiếu phim. Đêm đó, cả bản mường nhảy sạp,
uống rượu suốt đêm với đội. Hôm sau, trước khi về bà con lại mang gà, lợn chạy theo biếu các cán bộ chiếu phim, nhiều đến mức
không thể mang theo hết được". Còn anh Bạc Cầm Nuôi khẳng định: "Làm cái nghề này tuy vất vả song được bà con yêu quý nên
đã trót bén duyên rồi thì khó mà rời ra được. Đội CBLĐ hồi sinh, chúng tôi cũng hồi sinh".
06. Thào Sếnh Páo. CHUYỂN BIẾN MỚI TRONG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG TỈNH
SƠN LA / Thào Sếnh Páo // Tạp chí Dân vận Tháng 3/2012
Dân tộc Mông Sơn La chiếm 14,61% dân số toàn tỉnh, trên 25.000 hộ, khoảng
150.000 người, cư trú tập trung ở 632 bản, 126 xã, trên 11 huyện thành phố. Đồng bào dân
tộc Mông hầu hết cư trú trên các địa bàn vùng cao, vùng biên giới; Có truyền thống yêu
nước tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; Đoàn kết, không ngừng phấn đấu
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
5
vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống… Tuy nhiên, do trình độ dân trí nhìn chung còn
thấp, việc phát triển kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất thuần nông tự túc tự cấp, một số hủ tục
tập quán còn lạc hậu…; Tình trạng di, dịch cư tự do, truyền đạo trái pháp luật, tranh chấp
đất đai, tái trồng cây thuốc phiện vẫn còn xảy ra ở một số nơi trong tỉnh.
Từ thực tế trên, Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức Hội nghị
bí thư chi bộ, trưởng bản, trưởng dòng họ, già làng, người có uy tín dân tộc Mông toàn tỉnh.
Tại Hội nghị đã thông qua và ký cam kết thực hiện nội dung “5 có, 5 không”. “Năm có” (1:
Có đổi mới tập quán sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thâm canh tăng vụ, làm ra
nhiều hàng hóa để dùng và bán; 2: Có tinh thần đoàn kết giữa các dòng họ, các dân tộc và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; 3: Có nếp sống văn hóa xã hội chủ nghĩa trong việc cưới, việc
tang, lễ hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông; 4: Có ý thức xây dựng bản
mới phát triển toàn diện, no ấm, hạnh phúc, đảm bảo an ninh trật tự; 5: Có nhiều người hiếu
học, biết chữ, chăm làm, công tác tốt). “Năm không” (1: Không du canh du cư, vượt biên
trái phép và làm việc xấu; 2: Không truyền và học đạo trái phép và trái với phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc; 3: Không để người chết nhiều ngày, không để ngoài áo quan và
mổ nhiều trâu, bò; 4: Không tái trồng cây thuốc phiện, buôn bán, vận chuyển, sử dụng các
chất ma túy; 5: Không tảo hôn, thách cưới bạc trắng khi lấy vợ gả chồng, sinh đẻ nhiều
con).
Nhờ sự đồng thuận cao của bà con đồng bào người Mông cùng chính quyền và cấp
ủy Đảng trong tỉnh, qua 5 năm (2007 - 2011) thực hiện nội dung bản cam kết, nhận thức
của đồng bào đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đa số các bản vùng cao đã thay đổi thói
quen, tập quán lạc hậu, không du canh du cư, từng bước đổi mới, ổn định sản xuất, áp dụng
khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khai hoang ruộng nước, đưa
giống mới vào sản xuất, thâm canh tăng vụ theo hướng sản xuất hàng hóa, đặc biệt là trong
trồng trọt và chăn nuôi. Bên cạnh đó, do đồng bào dân tộc Mông đã tích cực học hỏi, hệ
thống mạng lưới trường học ngày càng được mở rộng, thu hút ngày càng nhiều học sinh các
dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Mông nói riêng theo học, tạo nguồn nhân lực phát
triển cán bộ địa phương. Việc học tập, giao lưu, tiếp cận khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi
nhận thức về sản xuất và lối sống của đồng bào. Đồng bào người Mông đã tích cực xóa bỏ
trồng cây thuốc phiện, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, xây dựng nếp sống văn hóa mới,
xóa bỏ các tệ nạn xã hội và các tập tục lạc hậu… Các hộ phấn đấu thoát nghèo bằng việc
tận dụng tốt hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng như: Cho hộ nghèo vay vốn xóa đói giảm
nghèo, vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, chương trình Nghị quyết 30a giúp đồng bào chuyển
hướng sản xuất, nâng cao thu nhập và đời sống.
Trong xây dựng đời sống văn hóa, trên cơ sở cam kết, các gia đình, bản làng đồng
bào đã duy trì và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan từng
bước được xóa bỏ. Tình trạng mất đoàn kết giữa các dòng họ dân tộc Mông, giữa các dân
tộc trên địa bàn đã giảm rõ rệt. Trong việc cưới, việc tang, đồng bào đã xây dựng nếp sống
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
6
văn hóa mới, văn minh tiết kiệm. Các hiện tượng ép hôn, tảo hôn; Tục bắt vợ, ép cưới đã
chấm dứt. Các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan được xóa bỏ; Người chết không để quá 48
giờ Tình trạng du canh, du cư, vượt biên trái phép đã giảm nhiều so với trước. Số xã, bản
đạt tiêu chuẩn không có ma túy từng bước được nâng lên…
Các thiết chế văn hóa ở cơ sở gắn với việc phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa
dân tộc, các phong tục tập quán tốt đẹp được giữ vững. Những dịp lễ tết các hoạt động vui
chơi giải trí như ném pao, đánh tụa lu, múa khèn… được duy trì. Các lễ hội của đồng bào
được làm đơn giản, gọn nhẹ. Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được quan tâm, từng bước
đi vào nền nếp, đúng với mục tiêu tốt đời đẹp đạo và quy định của pháp luật. Việc đẩy
mạnh tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo;
Kết quả của các phong trào, cuộc vận động đã tạo tâm lý phấn khởi cho đồng bào có đạo,
sự đồng thuận giữa đồng bào có đạo và đời được nâng lên.
Qua thực tiễn thực hiện nội dung “5 có, 5 không” ở đồng bào Mông, tỉnh Sơn La đã
rút ra một số kinh nghiệm:
Thứ nhất, cần có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể, đặc biệt là trong công tác tuyên truyền, vận động; Luôn bám sát tình
hình thực tiễn, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phát hiện những khó khăn,
bức xúc để tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp những giải pháp trong việc thực
hiện nội dung bản cam kết.
Hai là, tổ chức triển khai và thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, chính sách dân tộc miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống của
nhân dân; Hướng dẫn đồng bào dân tộc Mông cùng đồng bào dân tộc thiểu số khác triển
khai nhiều giải pháp đồng bộ với cách làm và những bước đi thích hợp để xây dựng các mô
hình kinh tế, ổn định đời sống của đồng bào.
Ba là, tranh thủ phát huy vai trò của những người có uy tín, trưởng dòng họ; Tuyên
truyền, vận động những người có uy tín, trưởng dòng họ tham gia công tác xã hội, công tác
mặt trận, đoàn thể và thuyết phục cộng đồng dòng họ phát huy bản sắc văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu đoàn kết xây dựng gia
đình văn hóa, bản văn hóa để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Bốn là, rà soát, chỉnh sửa bổ sung quy ước, hương ước ở những bản có đồng bào
Mông sinh sống, gắn với nội dung thực hiện bản cam kết “5 có, 5 không” phù hợp với điều kiện
thực tế ở cơ sở và yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để xác định các giải pháp lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả nội dung bản cam kết; Tổ chức trao đổi rút kinh nghiệm giữa những dòng họ làm tốt;
Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến trong thực hiện nội dung bản cam kết.
Năm là, xây dựng củng cố hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số nói chung và vùng đồng bào
dân tộc Mông nói riêng, tạo nguồn đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc Mông; Có chính sách thu hút cán bộ dân tộc
và cán bộ ở nơi khác đến công tác tại vùng đồng bào dân tộc Mông; Có chính sách động viên, bồi dưỡng phát huy vai trò già làng,
trưởng dòng họ, người có uy tín để hướng nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Cần
phải có sự phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong việc tuyên truyền vận động đồng bào thực hiện nội dung
bản cam kết “5 có, 5 không”.
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
7
07. Thanh Hà. HUYỆN BẮC YÊN, TỈNH SƠN LA: NHIỀU NGƯỜI CAO TUỔI LÀM KINH
TẾ GIỎI / Thanh Hà // Người cao tuổi Ngày 21/3/2012 Số 34
Hội NCT huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La có trên 5.000 hội viên sinh hoạt ở 15 Hội
NCT xã, thị trấn. Phong trào thi đua “Tuổi cao - Gương sáng” được đẩy mạnh, xuất
hiện nhiều tấm gương sản xuất kinh doanh giỏi, góp phần xóa đói giảm nghèo
Những NCT còn sức khỏe đều hăng hái lao động, hỗ trợ nhau làm kinh tế, tăng thu
nhập. Nhiều kinh nghiệm hay, điển hình tiên tiến được nhân rộng. Các chi hội mạnh dạn
chuyển từ tập quán sản xuất truyền thống tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, đưa tiến
bộ khoa học kĩ thuật, các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất cao vào sản xuất. Do vậy đời
sống của hội viên không ngừng được nâng lên.
Ông Nguyễn Mạnh Tường, ở tiểu khu 2, thị trấn Bắc Yên, 74 tuổi, mở cửa hàng kinh
doanh dịch vụ, mỗi năm thu nhập 150 - 200 triệu đồng. Bà Nguyễn Thị Liên, tiểu khu 3 thị
trấn Bắc Yên, kinh doanh dịch vụ, mỗi năm thu nhập 100 triệu đồng. Ông Hà Úm, tiểu khu
4 thị trấn Bắc Yên, ngoài 60 tuổi vẫn đầu tư mô hình VAC, xây bếp bi-ô-ga làm điện thắp
sáng, mỗi năm xuất ra thị trường 20 tấn thịt các loại, thu trên 100 triệu đồng. Bà Lường Thị
Pậng, Chi hội trưởng Phiêng Ban 2, thị trấn Bắc Yên, đầu tư xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, mỗi năm thu nhập
40 - 50 triệu đồng. Ông Mùa A Dơ, xã Tà Xùa, trên 70 tuổi, vận động gia đình con cháu chuyển đổi từ cây lương thực sang trồng
chè, mỗi năm thu nhập 50 - 60 triệu đồng, tuyên truyền vận động con cháu anh em trong bản định canh định cư trồng cây công
nghiệp.
Không chỉ làm kinh tế giỏi, NCT huyện Bắc Yên còn tích cực thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”, xây dựng nông thôn mới, tham gia đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống tội phạm
ma túy, góp phần tích cực cùng nhân dân các dân tộc trong huyện thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội ở
địa phương.
08. N. Thuận. TIN VẮN / N. Thuận // Văn hóa Ngày 21/3/2012 Số 2134
Từ đầu năm đến nay, huyện Mai Sơn đã bàn giao 70ha đất trồng cao su tại bản Đấu Mường và
bản Bon (xã Mường Bon) và 14ha rừng cộng đồng tại các bản: Nà Sy, Co Hiên (xã Hát Lót). Đồng thời, thực hiện chi trả, hỗ trợ
kinh phí kịp thời cho các hộ chuyển đổi đất sản xuất sang trồng cây cao su.
09. Nguyễn Trang. ĐỘC ĐÁO MỘC CHÂU / Nguyễn Trang // Thanh niên Ngày 22/3/2012
Số 82
Cao nguyên Mộc Châu, tỉnh Sơn La đang thu hút dân du lịch, đặc biệt là giới trẻ. Chỉ
khoảng 4 tiếng xe là có được trải nghiệm không khí mát mẻ dễ chịu với những khung cảnh
tuyệt đẹp.
Nhắc đến Mộc Châu, là nói tới rừng hoa đào, hoa mận nở trắng muốt vào mùa xuân.
Khi ấy cả đất trời nơi đây được bao phủ bởi thứ hoa thanh nhã, tinh khôi và mỏng manh
này. Ngoài ra, người dân Mộc Châu trồng rất nhiều rau cải. Hoa cải nở trắng phủ khắp các
triền đồi, tạo điểm nhấn hấp dẫn khách du lịch, có lẽ không phải nơi nào trên đất nước Việt
Nam cũng sở hữu nhiều cánh đồng hoa cải bạt ngàn đến vậy.
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
8
Đến Mộc Châu, khách du lịch còn được “đã mắt” bởi những đồi chè xanh bát ngát.
Chè được trồng nhiều nhất ở thị trấn Nông trường Mộc Châu, đường vào Ngũ Động Bản
Ôn hay dọc hai bên đường đi cũng có thể thấy một màu xanh mềm mượt trải dài. Khoảng
cuối tháng 3, đầu tháng 4 là thời điểm người ta thu hoạch chè. Nếu ai muốn thưởng thức vẻ
đẹp đồi chè Việt Nam thì Mộc Châu chính là một trong những điểm đến lý tưởng nhất.
Chính những vẻ đẹp thiên nhiên nguyên sơ, không có sự khai thác của con người đã
khiến cho Mộc Châu có vẻ đẹp quyến rũ. “Tôi đã đến đây trên dưới chục lần, cứ có ai rủ
lên Mộc Châu là tôi lại hăm hở vác ba lô đi cùng, với tôi, Mộc Châu là một tình yêu lớn”.
Bạn Quang Anh, sinh viên Đại học Y Hà Nội chia sẻ. Với xu hướng chụp ảnh cưới tìm về
thiên nhiên, đã có rất nhiều cô dâu, chú rể dắt nhau lên đây để làm một bộ ảnh cưới độc
đáo. Tuy nhiên, chi phí đi lại ăn ở khi lên đây chụp cũng không phải là rẻ.
Hiện nay, khách du lịch lên Mộc Châu ngày càng nhiều, một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ lên đây để chụp ảnh. Nhưng
đôi khi, vô tình hoặc cố ý, mọi người đã dẫm nát những vườn hoa cải của người dân vốn cho du khách vào chụp ảnh thoải mái và
miễn phí. Cũng chính vì phong trào đi du lịch chụp ảnh Mộc Châu mà vào các dịp lễ, tết, các ngày nghỉ, Mộc Châu thường cháy
phòng nghỉ khách sạn. Nếu có ý định đi Mộc Châu, bạn nên đặt trước phòng nghỉ khách sạn. Tại Mộc Châu hiện chưa có nhiều cơ
sở lưu trú.
10. Thanh Xuân. TÁI ĐỊNH CƯ THỦY ĐIỆN SƠN LA CHI VƯỢT QUÁ LỚN / Thanh Xuân //Nông thôn
ngày nay Ngày 22/3/2012 Số 70
Hôm qua, Bộ NNPTNT tổ chức Hội nghị tổng kết công tác di dân, tái định cư Dự án
Thủy điện Sơn La. Theo báo cáo, tính đến tháng 2/2012, các tỉnh đã triển khai lập 2.817 dự
án thành phần theo quy hoạch chi tiết được duyệt, đạt 98% kế hoạch. Trong đó, đã giải
ngân được gần 13.2478 tỷ đồng, đạt 98,2%; Giao đất sản xuất nông nghiệp đạt trên 18.362ha theo quy hoạch,
đạt 77,9%…
Bộ NNPTNT cũng cho biết, hiện các địa phương đã chi số vốn vượt quy hoạch tổng thể tới 4.200 tỷ đồng (Sơn La 3.700 tỷ
đồng, Điện Biên 500 tỷ đồng). Theo Bộ này, về nguyên tắc, sẽ không cho phép vượt mức đầu tư nên cần phải rà soát lại, xem xét cân
đối các nguồn lực và lồng ghép các chương trình mục tiêu, hỗ trợ sản xuất, ổn định cuộc sống người dân và đảm bảo hoàn thành
quy hoạch dự án di dân tái định cư đúng tiến độ.
11. Dương Đình Tường. TỔNG KẾT CÔNG TÁC DI DÂN, TÁI ĐỊNH CƯ THỦY ĐIỆN SƠN LA NĂM 2011 /
Dương Đình Tường // Nông nghiệp Việt Nam Ngày 22/3/2012 Số 59
Ngày 21/3, Bộ NN-PTNT đã tổ chức tổng kết công tác di dân, tái định cư Thủy điện Sơn
La năm 2011. Theo thống kê, các tỉnh đã triển khai đo đạc, lập bản đồ địa chính và thu hồi đất sản xuất nông nghiệp tại các khu,
điểm tái định cư với tổng diện tích 17.709 ha, đạt 75%. Giao đất nông nghiệp được 18.362 ha, đạt 77,9%. Hoàn thành di chuyển
20.380 hộ ra khỏi vùng ngập lòng hồ.
Đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân tại các khu, điểm tái định cư từng bước ổn định. Trước mắt, các hộ tái định
cư chủ yếu triển khai sản xuất nông nghiệp theo hướng truyền thống như các hộ dân sở tại. Một số mô hình sản xuất nông nghiệp
hàng hóa như trồng rau, chè, cao su, cây ăn quả… đang được tổng kết, rút kinh nghiệm trước khi phổ biến rộng rãi đến các khu,
điểm tái định cư.
Tổng kết hội nghị, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhấn mạnh: “Thủy điện Sơn La có nhiều cái nhất, quy mô lớn nhất, chính
sách mạnh mẽ nhất, lòng dân vui nhất. Có thể còn điều này điều nọ chưa được tốt nhưng chúng ta đã rất nỗ lực cùng các bộ ngành
và 3 tỉnh để thực hiện. Những việc còn lại phải phấn đấu hơn nữa trên tinh thần chỉ đạo là nơi ở mới tốt hơn nơi ở cũ, thu nhập của
nhân dân tái định cư phải cao hơn, ổn định hơn cũ”.
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
9
Nhân dịp này, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hồ Xuân Hùng, Cục phó Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn
Nguyễn Văn Đủ và Bộ NN-PTNT đều được trao tặng Huân chương Lao động hạng 3 vì có thành tích trong xây dựng cơ chế chính
sách, chỉ đạo điều hành thực hiện di dân, tái định cư Thủy điện Sơn La.
12. Nguyễn Yên Thế. HÁT NGÀN CÂU VỚI RỪNG GIÀ TÂY BẮC / Nguyễn Yên Thế // Kiến thức
gia đình Ngày 22/3/2012 Số 12
Cứ lâu lâu không lên Sơn La là tôi lại thấy nhớ nhung, bồn chồn. Mảnh đất ấy đã gắn
bó với tuổi trẻ khốn khó của tôi - một anh giáo nghèo, nhưng cũng là nơi đã cho tôi cả một
mạch nguồn thơ phong phú dường vô tận Và nơi ấy, ngoài các thế hệ học trò đáng yêu đã trưởng thành vẫn
một mực quý mến thầy, cùng những đồng nghiệp cũ đáng kính trọng, tôi còn có một sự gắn bó đặc biệt với một người bạn từng dạy
văn cùng trường, cùng sinh hoạt
giáo viên tập thể, cùng mang "trọng bệnh" yêu thơ. Đó là Dương Tam Kha.
Trùng tên với một vị vua cướp ngai vàng cách đây 10 thế kỷ, song Dương Tam Kha
lại không có một chút đam mê chính trị nào; Anh chỉ say thơ đến độ mê mẩn. Lần nào lên
Sơn La, tôi cũng phải cố gắng vào thăm căn phòng bụi bặm đầy sách vở và sặc mùi thuốc
lào nằm giữa một khu vườn lớn rậm rịt, để được anh "tra tấn" bằng hàng tập bản thảo thơ
dày cộp, bởi tôi đã trót ghim vào tâm tưởng những câu thơ như thế này của một anh chàng
được hàng xóm mệnh danh là "thi sĩ hâm": “Có phải em là nàng tiên đến từ cõi Phật. Hay là
chúng sinh mong cứu khổ giải oan? Nhặt chiếc lá khô viết lên câu thơ. Thương giọt sương
đêm lệ rưng đáy mắt”.
Lần nào chia tay nhau, anh cũng đưa tôi ra bên đường Chu Văn Thịnh đón xe vét
khách từ huyện Mường La (nơi có công trình Thủy điện Sơn La) về Hà Nội; Và lần nào
cũng thế, chúng tôi đều thấy bâng khuâng, không nỡ rời nhau. Trong bài Tiễn bạn, anh đã
kể lại cảm xúc ấy: “Người về thui thủi mình tôi. Sớm khuya một bóng gói lời nhớ
thương”
Tôi hiểu nỗi niềm của anh, người đang tìm cách tránh xa những tục lụy của đời sau
bao năm tháng vẫy vùng kiếm sống đến tuyệt vọng - bỏ nghề dạy học đi đào vàng, làm thợ
mộc thợ nề, nuôi cây cảnh để rồi lắm khi nhìn lại mơ ước xưa với không ít bẽ bàng, chua
xót: “Bơ vơ chiều nay, tôi trở lại. Một mình hoang vắng với trời không”. Hồi mới lên Tây
Bắc, chúng tôi, những chàng trai trẻ tuổi ngoài đôi mươi tràn đầy hào hứng và mơ mộng:
“Nơi đây không có thời gian. Tôi như con bướm say ngàn bông hoa. Xứ ngàn xanh yêu
quý. Hát ngàn lời đâu hết được hồn ta. Mỗi ngày trôi qua muôn sắc rừng già”
Thực tế phũ phàng của đời sống khiến không hiếm lúc “dòng thơ trào theo dòng
nước mắt”, song không thể cướp đi thi hứng của kẻ luôn cảm thấy “hoa ban, hoa đào rưng
rưng nước mắt người xưa”, của một người tự nhận “ta gửi lại mảnh hồn với rừng với
suối” Dương Tam Kha có nhiều bài thơ câu thơ hay viết về Tây Bắc, như đó chính là nơi
chôn rau cắt rốn và anh từng lớn lên bằng lời ăn tiếng nói của đồng bào miền núi vậy: “Đây
quê hương tôi. Hoa ban chạy đi tìm bạn nhớ. Hoa pặc piền thăm hỏi bạn thương. Trắng bay
hoa gạo thắp sao ráng chiều”
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
10
Cảm xúc tràn đầy và những quan sát kỹ lưỡng tinh tế về thiên nhiên và con người
Tây Bắc là cơ sở để anh viết được thiên trường ca Anh hùng Lò Văn Giá (Nxb Hội Nhà
văn) hơn 3.000 câu thơ và cũng khá đặc sắc! Nhiều năm sau nhìn lại, anh có thể nói với
người se duyên kết tóc với mình: “Bao dặm dài anh qua. Mái tóc giờ điểm bạc. Yêu thương
một mái nhà. Say tình người xứ lạ”
Nơi trập trùng rừng núi miền Tây, anh thường nhớ tới đồng bằng, vùng quê thời mới
lớn từng có một “cặp mắt long lanh đánh đuối hồn tôi” Và với hồi ức của người đang
sống giữa thiên nhiên Tây Bắc nơi thượng nguồn sông Đà, sông Mã, anh đã có những câu
thơ viết về quê hương vùng hạ nguồn sông Mã thật thấm thía: “Tôi lớn lên từ một làng quê
có một dòng sông. Có gió mặn mòi cơn nồm cơn bấc. Có giọt mồ hôi và rét buốt tê người
Quê hương hiển hiện trong tâm hồn thi sĩ qua những hình ảnh thân thuộc với bao thế
hệ và cũng thật "cổ điển" đối với thi ca: “Nâu sồng, cơm vắt, tương cà. Câu dân ca một thời
phiêu dạt Gánh cực dồn bước trèo non. Song mây quang đứt, tủi hờn nén thương. Thân cò
sớm nắng chiều sương. Hoang hoang lạnh những bãi truông sình lầy”. Anh viết về người
mẹ chốn quê cũ có “mái tóc trắng màu cánh cò lặn lội” như sau: “Nuôi con cạn bấc dầu
hao. Nếp nghèo gia giáo một câu tâm nguyền. Đạo Nho, đạo Phật lưu truyền. Vui hòa nước
mắt trải miền gian truân. Mẹ dẫu xa vẫn như gần. Trang thơ con lại nối vần ông cha”.
Những lần lang thang trong chợ phiên ở thị xã, khi mà “mây và trăng anh không thể
đem ra nơi chợ phiên”, Dương Tam Kha có dịp ngẫm lại ý nghĩa cuộc đời mình: “Bơ vơ đi
chợ chiều nay. Không mua chẳng bán mới hay phận mình". Thực ra, anh đã làm đủ thứ việc
để mưu sinh, nhưng chẳng việc nào ra hồn, trong khi đó thì: “Sách đèn thơ phú quên tháng
ngày”, thơ vẫn bám theo như một duyên nợ tự kiếp nào: “Rừng sâu núi thẳm xa vợ con.
Lên núi tìm vàng vàng chẳng có. Làm thơ khóc đời ta không đặng. Ngày ngày thơ thẩn bên
suối vắng. Nhặt hòn cuội trắng ném lên trăng”. Cay đắng thay, kẻ nặng nợ với văn chương
làm sao đủ bản lĩnh để đối chất được với sự dè bỉu của những người tỉnh táo: “Ông là nhà
thơ hử? Tôi không có thời giờ. Mưu sinh dày công chuyện. Thơ dành người mộng du!”.
Nhưng rồi, bởi: “Thơ từng chữ như hơi sương đọng lại” nên nhà thơ đành chấp nhận cái
phận “còn lưng đôi chữ hong vào đèn đêm”, và: “Thương câu lục bát bơ vơ. Tháng ba có
một khách thơ bạn cùng Thôi đành một kiếp đa đoan. Giọt cay giọt đắng tìm sang bạn
hiền”
Say thơ đến độ, anh đã làm cả một trang Web: "Dương Tam Kha toàn thơ"! Dương
Tam Kha từng tuyên bố rằng, nguồn sống chính của thơ anh không phải là kỷ niệm và vẻ
đẹp của hoa lá, mà là nỗi đau khổ của: “Những người dưới đáy cùng xã hội/ Hồn nhập đời
ta”. Hàng ngày chứng kiến cảnh Chợ Người, anh thương cảm cho những người: “Trông
chờ đồng tiền rẻ mạt. Bán mồ hôi, máu và nước mắt. Mặt trời úa vàng, làn da xanh xao. Có
kẻ thở dài ngao ngán”
Một trong những bài thơ hoàn bích hơn cả của Dương Tam Kha là bài Phố núi, viết
tại Sa Pa. Nếu ai đó tới đây chỉ thấy vẻ đẹp, sự thi vị, thì thông qua cái nhìn của một anh
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
11
họa sĩ, nhà thơ đã vẽ lên sự tương phản của hai cảnh sống - giữa chủ nhân của các biệt thự sang trọng, các du khách với những
cảnh:
“Mẹ dắt đàn con, em lả trên vai chị
Lần lữa tháng ngày hàng rong lưu niệm.
Mấy cụ già đàn hát bản xa
Hai góc chiếu ngồi như tượng đá
Hàng rào đá ngăn bầy trẻ nhỏ
Lũ trâu gầy gặm cỏ cằn khô.
Cả bản ngược xuôi lên rừng xuống phố
Đôi mắt dại cháo rau cuối chợ
Bước mỏi mòn u ám chiều mưa"
Dương Tam Kha không chỉ biết trữ tình và thốt mỉa mai, căm giận, anh còn biết tự
trào - và đó cũng là một khía cạnh riêng khá lý thú của thơ anh. Đây là một bài mới nhất
của anh, cho thấy sự trưởng thành của bút pháp cũng như cái nhìn của nhà thơ về cuộc đời:
“Chùa nương động núi sương giăng lạnh. Khói nhang đèn mờ Phật hay Tiên? Phận nghèo
lòng thành tâm hương nguyện. Phật cười: "Kiếp trước tôi giống anh!".
Anh chế riễu Nàng Thơ - tức cũng chế riễu mình chơi: “Nàng thơ Đích thị là ả đa
tình, trái tính, trái nết. Nàng làm khổ ta phút phút, giờ giờ, đêm đêm, ngày ngày, tháng
tháng, năm năm. Ta chẳng còn gì mà nàng đâu chịu buông tha, mời nàng về, làm một
Manơcanh để nơi cánh cửa, hay bên cạnh bàn thờ thêm vui nhà, vui xóm!”. Nhưng, anh lại
thú thực ngay sau đó: “Cái ta có được giờ đây là mái tóc bông mây, và ngày ngày nàng thơ
hằng gõ cửa”
Chắc anh không thể làm gì hơn cái việc: “Hát đến bao giờ vơi nỗi cô đơn”. Và trong
cảnh ngộ “Bao niềm tin, hy vọng” tan thành mây khói, anh vẫn luôn tâm niệm: “Trang thơ
anh dầu ngót nghìn bài. Chưa một lần nỡ phụ tương lai ”.
Giờ đây, anh đã rời Sơn La lên sống với gia đình trên thành phố Lao Cai; Anh lại tiếp tục hòa mình vào cuộc sống của
đồng bào dân tộc, tiếp tục ngẫm ngợi, làm thơ Và nhớ bạn thơ. Còn tôi, mỗi lần ngược Sơn La thăm bè bạn, học trò hay làm phim,
lại nhớ về cái phòng văn ngập bụi và khói thuốc lào của anh, ngâm nga câu thơ của anh để nói hộ lòng mình: “Người về thui thủi
mình tôi. Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương ”.
13. Minh Ngọc. QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN THỊ TRẤN MỘC CHÂU (SƠN LA): GIÚP DÂN
VƯỢT KHÓ LÀM GIÀU / Minh Ngọc // Nông thôn ngày nay Ngày 23/3/2012 Số 71
Từ nhiều năm nay, nhiều nông dân ở Mộc Châu đã coi Quỹ Tín dụng nhân dân
(TDND) thị trấn Nông trường Mộc Châu là người bạn đồng hành, vì mỗi khi gặp khó khăn, bà con đều được Quỹ hỗ trợ
kịp thời.
Bốn năm trước, anh Đặng Văn Trực ở tiểu khu 84, thị trấn Nông trường Mộc Châu
bắt đầu vào nghề chăn nuôi bò sữa, với vốn liếng trong tay chỉ vẻn vẹn có 25 triệu đồng.
Khi đó, có hộ trong tiểu khu muốn bán gấp đàn bò sữa hơn 10 con chỉ có 350 triệu đồng và
phải trả tiền ngay. Thấy vậy, cả gia đình anh Trực rất muốn mua lại, nhưng chạy vạy vay
vốn ngân hàng không được vì không có tài sản thế chấp. Có người ngỏ ý cho mượn sổ đỏ
để vay vốn nhưng tìm hiểu ra thì làm xong thủ tục cũng mất tới gần 10 ngày. Đang lúc bế
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
12
tắc, anh Trực đã được Quỹ TDND của thị trấn giúp đỡ bằng việc cho vay ưu đãi. Với sự hỗ
trợ kịp thời này, hiện gia đình anh Trực đã có đàn bò sữa cho thu nhập ổn định tới vài trăm
triệu đồng mỗi năm.
Ông Nguyễn Đức Huy - Giám đốc Quỹ TDND thị trấn Nông trường Mộc Châu kể
lại: "Thời điểm đó, anh Trực có đến Quỹ trình bày hoàn cảnh và ngỏ ý muốn vay 320 triệu
đồng, nhưng không có tài sản thế chấp. Tôi thấy người thật, việc thật nên vào tận nơi kiểm
tra luôn. Đúng là đàn bò ấy khỏe, đẹp, đang cho sữa tốt. May mắn nữa là có hộ ông Đặng
Văn Chính là thành viên của Quỹ, nhà ở gần đấy sẵn sàng đứng ra bảo lãnh khoản vay này
cho anh Trực bằng toàn bộ gia sản của họ. Nghĩ cơ hội của khách cũng là của mình, với lại
sự đi lên của Quỹ phải gắn với sự phát triển chung của nhân dân trên địa bàn, góp phần
biến cơ hội của nông dân thành hiện thực, chúng tôi đã quyết định cho anh Trực vay luôn
toàn bộ số tiền đó và chỉ sau 2 năm anh ấy đã trả xong cả gốc và lãi".
Ông Mùa A Lềnh ở bản Chiềng Đi, xã Vân Hồ (Mộc Châu) có 2ha trang trại, nhận
xét: "Quỹ TDND thị trấn Nông trường Mộc Châu hoạt động rất sát dân. Đối với chúng tôi,
ai muốn phát triển kinh tế, sửa sang nhà cửa, mua máy móc, phương tiện làm ăn đều được
Quỹ cho vay. Năm nay, dù khó khăn về vốn, nhưng Quỹ vẫn chấp nhận tăng lãi suất tiền
gửi, giảm lãi suất tiền vay để giúp nông dân vượt khó". Còn ông Nguyễn Văn Thân ở tiểu
khu 77, thị trấn Nông trường Mộc Châu đánh giá: "Đặc điểm của Quỹ là biết chia sẻ với
dân, không chỉ làm ăn minh bạch, không sách nhiễu khách hàng, mà họ còn mạnh dạn tham
mưu với các cấp chính quyền, ngành chức năng để tháo gỡ nhiều khó khăn cho khách hàng
trong thủ tục hành chính. Hàng năm, Quỹ còn đóng góp cả trăm triệu đồng cho các hoạt
động từ thiện như xây nhà đại đoàn kết, ủng hộ học sinh nghèo vượt khó, hỗ trợ người
nghèo ”.
Theo ông Nguyễn Đức Huy: “Bản chất của Quỹ TDND là của nhân dân, nên phải vì dân. Thời gian qua, khi nông dân rất
khó khăn về vốn, chúng tôi đã nâng trần huy động lãi suất lên tới 14,5%/tháng nhưng lại hạ mức lãi suất cho vay từ 17,5% xuống
dưới 17%. Cũng chính nhờ vậy mà chúng tôi phát triển, huy động vốn đạt trên 300 tỷ đồng, vượt trần doanh số cho vay trên 30 tỷ
đồng.
Vừa qua, Quỹ Tín dụng nhân dân thị trấn Nông trường Mộc Châu đã vinh dự được đón nhận Huân chương Lao
động hạng Nhì của Chủ tịch nước trao tặng.
14. Bùi Minh. “LÍNH TÌNH NGUYỆN” Ở MIỀN TÂY BẮC / Bùi Minh // Quân đội nhân dân cuối
tuần Ngày 25/3/2012 Số 847
Tháng Ba này lên công tác ở Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 326 của Quân khu 2 đang
làm nhiệm vụ trên miền biên giới Tây Bắc thuộc 2 tỉnh Điện Biên và Sơn La, trong câu
chuyện với cán bộ, chiến sĩ đơn vị và cán bộ, nhân dân địa phương, chúng tôi được nghe
nói nhiều về những trí thức trẻ tình nguyện. Điều đó không chỉ vì tháng Ba là “Tháng
Thanh niên”, mà còn vì đây là vấn đề thời sự đang được quan tâm tại các khu kinh tế -quốc
phòng (KT-QP) do quân đội quản lý.
Đại tá Phạm Văn Khả, Chính ủy Đoàn KT-QP 326 kể: Thực hiện dự án “Tăng cường trí thức trẻ tình nguyện đến công
tác tại các khu kinh tế - quốc phòng” do Bộ Quốc phòng và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đề xuất, được Chính phủ phê
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
13
duyệt ngày 29/1/2010, đến nay Đoàn KT-QP 326 đã đón 2 đợt tổng cộng 37 trí thức trẻ tình nguyện (TTTTN) về công tác tại các đoàn
sản xuất. Thực ra từ trước khi được Chính phủ phê duyệt dự án, hoạt động đưa TTTTN về tham gia công tác tại các khu KT-QP đã
được thí điểm tại nhiều đơn vị trong toàn quân và thu được nhiều kinh nghiệm quý. Vì vậy, sau khi tiếp nhận các đợt TTTTN do các
cấp bộ đoàn địa phương tuyển chọn và giới thiệu đến, đơn vị đã tổ chức tập huấn trang bị những kiến thức cần thiết cho TTTTN
trước khi biên chế về công tác tại các đoàn sản xuất phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của các đội viên và nhu cầu của các đơn vị.
Mô hình hoạt động của Đoàn KT-QP 326 là quản lý tập trung lực lượng TTTTN tại
các đoàn sản xuất, nhưng trực tiếp tham gia thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội,
xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới tại các đội sản xuất. Phương thức hoạt động
của TTTTN là tổ chức các “chiến dịch”, các đợt “ra quân” thực hiện các chuyên đề, các dự
án hoặc các nhiệm vụ đột xuất. Kết thúc mỗi đợt “ra quân”, mỗi “chiến dịch” thì “rút quân”
về các đoàn sản xuất tổng kết công tác, đúc rút kinh nghiệm và xây dựng đề án công tác
tiếp theo. Hơn 2 năm qua, lực lượng TTTTN ở Đoàn KT-QP 326 đã có nhiều hoạt động
thiết thực góp phần vào thành công của các dự án phát triển kinh tế - xã hội tại các địa bàn;
Tham gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tập hợp và giáo dục thanh niên - thiếu niên địa
phương; Tham gia xây dựng đơn vị và hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện
Chúng tôi về Đoàn Sản xuất 825 đóng ở huyện biên giới Sốp Cộp của tỉnh Sơn La,
đến thăm một nhóm TTTTN đang chăm sóc vườn ươm cây giống của đơn vị. Khi được hỏi
chuyện về công việc “tình nguyện” trên dải biên cương heo hút này, các nam thanh nữ tú
hào hứng kể về những đợt “ra quân” đi phun thuốc khử trùng, tiêm phòng gia súc và những
đợt đi dập dịch bệnh lở mồm long móng trâu bò; Những đợt đi làm “mô hình trình diễn”
trồng lúa nước cho bà con ở Nà Vèn, Hin Cát ở Mường Và; Những chuyện “buồn cười” khi
vận động bà con chuyển đổi cơ cấu nuôi trồng, áp dụng kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt
Hỏi: Vì sao lại xung phong tình nguyện lên công tác ở vùng biên giới khó khăn gian khổ
như thế này? Nhiều câu trả lời rất thành thực: Bây giờ học xong xin việc rất khó khăn. Xin
đi TTTTN, vì hy vọng sẽ được tuyển dụng vào làm viên chức quốc phòng. Nếu không được
tuyển dụng vào biên chế thì sau mấy năm thực hiện “nghĩa vụ”, mình cũng trưởng thành
hơn, sau này xin vào các cơ quan Nhà nước cũng được xem xét ưu tiên. Trước mắt, vào làm
TTTTN là có lương, có phụ cấp ưu đãi khu vực đặc biệt Một chàng trai tên Thành, tâm
sự: Thực tình ban đầu xin vào đây cũng chỉ là để giải quyết công ăn việc làm trước mắt.
Nhưng quá trình công tác thấy nhân dân cực khổ quá, họ rất cần sự giúp đỡ của bộ đội và
TTTTN. Đặc biệt các anh bộ đội biên phòng, các tổ đội công tác của Bộ CHQS tỉnh, của
quân khu nhiều người gắn bó với đồng bào trên này hàng chục năm. Họ là những tấm
gương cụ thể để những trí thức trẻ “so sánh” với bản thân mình và noi theo các anh
Cô kỹ sư công nghệ thực phẩm Hà Thị Tâm 25 tuổi, quê ở Sầm Sơn - Thanh Hóa,
kể: Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Nha Trang, cô đã đi làm ở một cơ sở tư nhân, nhưng
vì thích làm “người Nhà nước” nên xin vào làm TTTTN ở đây. Những ngày đầu, cứ băn
khoăn mình là kỹ sư thực phẩm thì không biết làm việc gì cho hợp, nhưng qua thực tế thì
thấy với trình độ đại học thì mình có thể giúp đỡ bà con ở đây được rất nhiều việc. Chẳng
hạn, hè năm ngoái Tâm đã làm cô giáo cho mấy chục học sinh ở xã Mường Và. Đây là lớp
học do UBND xã tổ chức, nhờ Đoàn Sản xuất 825 giúp đỡ mấy chục cháu lớp 5 thuộc loại
Sơn La qua báo chí Trung ương Số 06 năm 2012
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét