3.3.3.1. Diễn biến tỷ lệ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng trong
các tháng 25
3.3.3.1. Diễn biến mật độ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng trong
các tháng 27
3.4. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến tỉ lệ sâu đục thân mình trắng 30
3.4.1. Ảnh hưởng của cây che bóng đến tỉ lệ cây bị sâu đục thân mình trắng
gây hại 30
3.4.2. Ảnh hưởng của tuổi cây đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng
gây hại 32
3.4.3. Ảnh hưởng của chế độ chăm sóc đến tỉ lệ cây cà phê bị sâu đục thân
mình trắng gây hại 34
3.4.4. Ảnh hưởng của vị trí trồng (sườn núi phía Đông, phía Tây) đến tỉ lệ cây
cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại 36
3.5. Đề xuất một số giải pháp phòng trừ sâu đục thân mình trắng
(Xylotrechus quadripes Chevr) 39
PHẦN 4 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 42
4.1 Kết luận 42
4.2. Kiến nghị …………………………………………………………… 43
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 3.1. Thành phần sâu hại cà phê chè tại Chiềng Pha năm 2010 Bảng
3.2. Tỉ lệ cây bị hại của sâu đục thân mình trắng
Bảng 3.3. Tỷ lệ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng
Bảng 3.4. Mật độ hại của sâu đục thân mình trắng
Bảng 3.5: Tỷ lệ (%) cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại ở vườn có
cây che bóng và vườn không có cây che bóng
Bảng 3.6: Tỷ lệ (%) cây cà phê ở các độ tuổi bị sâu đục thân mình trắng gây
hại
Bảng 3.7: Tỷ lệ (%) cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại ở vườn
chăm sóc tốt và ít chăm sóc
Bảng 3.8 : Tỷ lệ (%) cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại ở sườn núi
phía Đông và phía Tây
Hình 1: Tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại
Hình 2: Tỷ lệ các pha phát dục của sâu đục thân mình trắng
Hình 3: Mật độ hại của sâu đục thân mình trắng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BVTV : Bảo vệ thực vật
CS : Cộng sự
ĐT : Điều tra
TB : Trung bình
TLH : Tỷ lệ hại
TT : Trưởng thành
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ngày xưa cà phê là một loại thức uống mà chỉ có giới quí tộc mới được
thưởng thức, Honoré de Balzac thường uống loại cà phê rất đặc để có thể thức
làm việc. Ông thường làm việc tới 12 tiếng một ngày. Ludwig van Beethoven có
thói quen lựa chọn đủ 60 hạt cà phê để pha một tách Mokka. Ngày nay cà phê
trở thành thức uống phổ biến nhất trên thế giới. Cà phê gây hưng phấn kích thích
hệ thần kinh trung ương, làm cho tỉnh táo, kích thích khả năng làm việc, đặc biệt
làm việc bằng trí óc, tăng cường hoạt động cơ. Khi mỏi mệt uống một ly cà phê
sẽ hưng phấn tinh thần, uống sau khi ăn sẽ trợ giúp cho tiêu hoá, mùa hè nóng
bức uống một ly cà phê lạnh cũng có tác dụng giải khát, phòng cảm nắng. Cà
phê còn làm giảm nguy cơ mắc bệnh hen, chữa được dị ứng, giúp giảm đau, bảo
vệ khỏi các bệnh về gan, làm tăng sức mạnh của cơ bắp chống lại bệnh tiểu
đường type II…
Ngoài ra cà phê còn chứa: đường saccaroza 5.3- 7.95%, đường khử 0.3-
0.44%, protein hòa tan 5.15%- 5.23%, các loại protein không hòa tan 5.02-
6.04%, các sinh tố nhóm B, PP là các chất dinh dưỡng cần thiết cho con người.
Hơn nữa khi thưởng thức cà phê ta thấy có mùi thơm rất hấp dẫn, của gần 670
hợp chất thơm phức tạp tạo nên. Hiện nay trên thế giới có hơn 80 nước trồng cà
phê với tổng diện tích hơn 10 triệu ha, giá trị xuất khẩu hàng năm lên tới 10 tỷ
đô la, trong đó phải kể đến Braxin, Colombia, Indonexia, Costarica… Năm 2010
Việt Nam có khoảng 450.000 ha cà phê, sản lượng khoảng 600000 tấn, kim
ngạch xuất khẩu xấp xỉ 1 tỷ USD, là nước đứng đầu thế giới về diện tích, sản
lượng cà phê vối xuất khẩu. Trồng cà phê thu lợi nhuận cao, tạo công ăn việc
làm cho hàng triệu lao động, không những xóa đói giảm nghèo mà còn làm cho
đời sống của nhiều vùng dân cư ngày càng khá . Nhiều vùng đồng bào dân tộc
đã xoá bỏ tập tục du canh du cư, thay thế diện tích trồng ngô sắn bằng cà phê, ổn
định đời sống nhờ có cây cà phê. Mặt khác trồng cà phê góp phần phủ xanh đồi
núi trọc, cải tạo môi sinh, chống lũ lụt, đặc biệt là xói mòn- một vấn đề nhức
nhối với Tây Bắc nói chung, tỉnh Sơn La nói riêng.
Xã Chiềng Pha là một xã nghèo, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
trình độ dân trí còn thấp, cơ cấu cây trồng nghèo nàn. Một vài năm gần đây đời
sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể nhờ tăng diện tích trồng cây cà
phê. Nhưng trong quá trình phát triển cây cà phê chè đây chưa đạt được năng
suất cao do gặp một số khó khăn như sương muối, kỹ thuật thâm canh và đặc
biệt là sâu bệnh hại. Để cây cà phê phát triển bền vững cần phát triển cây cà phê
theo quy hoạch, áp dụng đúng quy trình kĩ thuật, chăm sóc cây theo quy trình
phòng trừ dịch hại tổng hợp đặc biệt với loài sâu hại nguy hiểm là sâu đục thân
mình trắng Xylostrechus quadries Chevr, loại sâu phá hại thân quanh năm, rất
khó phát hiện, mang tính hủy diệt đối với cây cà phê công tác phòng trừ rất khó
khăn. Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành đề tài: “Điều tra thành phần sâu
hại cà phê chè, diễn biến và một số yếu tố ảnh hưởng đến sâu đục thân mình
trắng Xylostrechus quadies Chevr trong năm 2010 tại xã Chiềng Pha Thuận
Châu, Sơn La năm 2010”.
2. Mục đích, yêu cầu.
2.1Mục đích
- Đánh giá được thành phần sâu hại cà phê chè , mức độ gây hại và các yếu tố
ảnh hưởng đến sâu đục thân mình trắng từ đó tìm ra biện pháp phòng trừ có hiệu
quả
2.2 Yêu cầu
- Nắm được thành phần sâu hại cà phê xã Chiềng Pha, Thuận Châu, Sơn La.
- Xác định đặc điểm gây hại của sâu đục thân mình trắng.
- Xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến sâu đục thân mình trắng.
Phần I: TỔNG QUAN
1.1. Thành phần sâu hại trên cây cà phê
Thế giới càng phát triển thì nhu cầu con người cũng được tăng theo, một trong
những nhu cầu đó là nhu cầu sử dụng cà phê như nước giải khát. Nắm bắt được
nhu cầu đó thì ngành cây cà phê trên thế giới cũng phát triển mạnh mẽ, một số
nước có sản lượng xuất khẩu lớn hàng đầu thế giới như Brazin, Việt Nam, Thái
Lan, Indonexia…Tuy nhiên bên cạnh đó cũng tồn tại một số khó khăn nhất định
đã làm cho sản lượng, chất lượng cà phê bị ảnh hưởng. Một trong những khó
khăn đó là vấn đề sâu bệnh hại cây cà phê đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới và Á
nhiệt đới là những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sâu bệnh hại phát
triển, mà cà phê là loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao vì vậy việc nghiên cứu về
thành phần sâu hại cà phê đã được nghiên cứu từ lâu, khá kỹ và cũng đã được
công bố trên thế giới.
Theo Lepelley (1986), từ năm 1962 đã ghi nhận được 48 loài sâu hại cà phê ở
vùng nhiệt đới. Trong đó quan trọng là các loài: Scotia, Segetum, Anthores
leuconotus, Bixadus sierricola, Coccus viridis, Leucoptea coffeella, Lcoffeina,
Dichocrocis crocodora, Epicampoptera maranica, Habrochila placida Taurantii,
Oligonychus cofeae, Antestia lineaticollis, Stephanoderes hampei, Toxoptera
aurantii và Thliptoceras octguttale (Wynger,1962), dẫn theo Vũ Quang Giảng
(2001) [4].
Le Pelley (1973) có nhận xét: trên cây cà phê có gần 400 loài côn trùng gây
hại ở Ethiopia, ở các nước Đông Á có 250 loài và các vùng trung tâm nhiệt đới
có 200 loài. Theo Klarke, Macrae (1987) và Clifford, Willson (1987), đến nay
trên thế giới dịch hại cây cà phê đã ghi nhận tương đối chi tiết, đầy đủ với
khoảng hơn 900 loài. Các loại dịch hại này bao gồm côn trùng, ve, động vật thân
mềm, tuyến trùng, chim và động vật có vú, trong đó có nhiều loài là dịch hại
nguy hiểm trên cây cà phê. Phần lớn những loài đã phát hiện thuộc bộ cánh cứng
(Coleoptra) với 34% tổng số loài, bộ cánh nửa cứng (Hemiptera) với 28% tổng
số loài và bộ cánh vảy (Lepidoptera) với 21% tổng số loài. Các bộ khác đã phát
hiện được số loài ít hơn. Thí dụ, có 6% tổng số loài đã phát hiện thuộc bộ cánh
thẳng (Orthoptera), 4% tổng số loài thuộc bộ cánh tơ (Thysanoptyra), 3% tổng
số loài thuộc bộ hai cánh (Diptera) và 1% tổng số loài thuộc bộ mối, dẫn theo
Vũ Quang Giảng (2001) [4].
Theo Kramer (1967): ước tính sự mất mùa trên cà phê do côn trùng ở các
châu lục khác nhau là khác nhau: Châu Phi 10%, Châu Á: 15%, Châu Mỹ: 12%.
Cũng theo tác giả, giống cà phê chè (Coffea arabica) mẫn cảm với sâu bệnh hại
nhiều hơn giống cà phê vối (coffea canephora Var. Robusta), dẫn theo Vũ Quang
Giảng (2001) [4].
Dennis S.Hill ( 1983) [4] cho rằng: dịch hại thường xuyên có mặt trên là phê
là 95 loài, trong đó dịch hại chủ yếu là 38 loài, dịch hại thứ yếu là 57 loài, dẫn
theo Vũ Quang Giảng (2001) [4].
Theo Phạm Thị Vượng và CS, (2000) [13]: có 24 loài sâu hại cà phê chè, 3
loài hại thân, 2 loài hại cành, 1 loài hại gốc, 2 loài cắn cây con, 15 loài hại lá.
Trong đó có 4 loài thường xuyên gây hại và ảnh hưởng lớn đến năng suất đó là:
sâu đục thân, sâu tiện vỏ, mọt đục hạt và 1 số loài rệp (rệp sáp giả, rệp nâu
mềm), ngoài ra ở một số vùng mọt đục hạt cà phê có mật độ và tỷ lệ hại rất cao.
Vũ Khắc Nhượng và CS (1989) [7] cho rằng: có 22 loài sâu hại chủ yếu
thường gặp trên các vườn cà phê ở Việt Nam. Trong đó, sâu hại phổ biến ở rễ có
loài, sâu hại phổ biến ở thân và cành có 4 loài, sâu hại phổ biến ở lá có 9 loài và
sâu hại ở chùm quả có 3 loài.
Kết quả điều tra thu thập thành phần sâu hại cà phê ở các tỉnh phía Nam
và Tây Nguyên đã phát hiện có 12 loài. Chúng thuộc 5 bộ côn trùng là bộ cánh
cứng Coleoptera (5 loài), bộ cánh vảy Lepidoptera (3 loài), bộ cánh đều
Hompytera (2 loài), bộ cánh thẳng Orthoptera (1 loài) và bộ cánh nửa cứng
Hemiptera (1 loài), (Viện Bảo Vệ Thực Vật, 1999) [13].
Theo kết quả điều tra của Phan Đình Bổng (2001) [1]: tại Gia Lai đã ghi nhận
được 14 loài sâu hại. Chúng tập trung trong 7 họ thuộc 4 bộ côn trùng. Trong
đó: Bộ cánh vẩy Lepidoptera có 1 loài (chiếm 7,14 %), bộ cánh cứng Coleoptera
2 loài (chiếm 14,29 %), bộ mối Isoptera 1 loài (chiếm 7,14 %) và bộ cánh đều
Homoptera 10 loài (chiếm 71,43 %)
Đoàn Công Đỉnh, (1999) [3] nhận xét: sâu hại cà phê rất phong phú và đa
dạng tuy nhiên không phải loài sâu hại nào cũng gây hại nghiêm trọng, chỉ có
một số loài gây hại có ý nghĩa đối với cà phê. Điều tra trong 3 năm 1996 - 1998
trên cây cà phê ở vùng Tây Nguyên phát hiện được 12 loài côn trùng hại cà phê.
Trong đó phổ biến là các loài rệp sáp mềm xanh Coccus viridis Green và rệp sáp
giả Planococus citri Risso hại thân, lá, quả.
Trên cây cà phê chè ở các tỉnh miền núi phía Bắc ghi nhận được có 23 loài
sâu hại, trong đó sâu tiện vỏ được phát hiện lần đầu tiên gây hại cà phê. Sau đó
các tác giả này đã ghi nhận thêm 2 loài sâu hại nữa, đưa tổng số loài sâu hại đã
ghi nhận được trên cây cà phê chè ở các tỉnh miền Bắc lên 25 loài (Trần Huy
Thọ và CS, 1999) [10]. Trong 25 loài đó có 15 loài thường xuyên xuất hiện trên
các vườn cà phê. Trong số các loài đã phát hiện có 4 loài gây hại thân, 2 loài gây
hại cành, 2 loài gây hại cây con và 12 loài gây hại lá. Riêng tập đoàn rệp sáp hại
cà phê chè đã ghi nhận có 4 loài khá phổ biến và quan trọng là rệp sáp mềm
xanh Coccus viridis Green, rệp sáp giả Planococcus citri, rệp sáp mềm nâu
Coccus hesperidum.L, rệp sáp nâu Parasaissetia nigra. Những loài thường xuyên
gây hại nặng cho vườn cà phê gồm: sâu đục thân Xylotrechus quadrips, sâu tiện
vỏ Dihammus cervinus, rệp sáp giả Planococcus citri và rệp sáp nâu
Parasaissetia cervinus , Trần Huy Thọ và CS (2000) [11].
Như vậy thành phần sâu hại cà phê được quan tâm nghiên cứu khá kĩ và
đầy đủ trên các vùng trồng cà phê. Nắm được thành sâu hại cà phê ta có thể có
các biện pháp phòng trừ hợp lí cho từng vùng miền.
1.2. Nghiên cứu về sâu đục thân mình trắng hại cà phê
Theo Dr Hall và CS (1998), [15] sâu đục thân mình trắng là loại côn trùng
gây hại quan trọng nhất trên cà phê chè ở Ấn Độ cũng như Srilanka, Trung
Quốc, Việt Nam, Thái Lan. Trong các nguyên nhân làm giảm diện tích canh tác
cà phê thì sâu đục thân mình trắng là nguyên nhân trung tâm, người ta ước tính
rằng cả nước bị mất 130m rupi mỗi năm vì loài sâu hại. Xén tóc đực hấp dẫn
con cái bằng hoocmon sinh dục đực được phát hiện ra bởi Venkateshu và cộng
sự năm 1986. Qua nhiều nghiên cứu các nhà khoa học đã xác định được 3 chất
hấp dẫn của xén tóc đực, người ta có thể dùng kết hợp ba loại feromol này để
dẫn dụ con cái và tiêu diệt chúng.
1.2.1. Đặc điểm sinh học
Trưởng thành là loài xén tóc nhỏ có râu đầu thẳng, sâu non màu trắng ngà,
không có chân, các đốt thân rõ, ngực rộng hơn bụng, hàm răng sắc khỏe, màu
nâu sẫm, khi gần hóa nhộng (tiền nhộng) phần ngực hẹp lại gần bằng phần bụng,
nhộng màu nâu sẫm (Giáo trình côn trùng nông nghiệp, 1982) [5].
Sâu đục thân mình trắng Xylotrechus quadripes Chevr chỉ phá hoại trên cà
phê chè (K.s Bùi Thế Đạt và CS, 1995) [2]. Hiện nay Sơn La vẫn chưa phát hiện
kí chủ phụ của loài sâu này, nên công tác phòng trừ khó khăn hơn.
1.2.2. Đặc điểm hình thái, quy luật phát sinh gây hại của sâu đục thân mình
trắng hại cà phê
1.2.2.1. Đặc điểm hình thái, tập quán sinh sống và qui luật phát sinh gây hại.
Hàng năm sự xuất hiện gây hại của sâu bore trên các lô cà phê là liên tục và
phức tạp quanh năm đều gặp các pha phát dục của sâu, do đó sự phân lứa sâu
một cách rõ rệt có khó khăn. Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, vòng đời của sâu
bình quân là 150- 210 ngày, trong đó:
+ Pha trưởng thành: 25-30 ngày
+ Pha trứng: 15-30 ngày
+ Pha sâu non: 60-120 ngày
+ Nhộng: 30 ngày
Trưởng thành sau khi vũ hóa vẫn nằm lại trong thân cây từ 2-5 ngày (có thể từ
10-15 ngày) chờ điều kiện ấm áp mới chui ra hoạt động. Phạm vi độ nhiệt từ 25-
30
0
C sâu trưởng thành hoạt động mạnh. Con trưởng thành ưa hoạt động ở những
nơi quang đãng nhiều ánh sáng. Trưởng thành có tập quán uống nước nhiều nhất
là có nhiệt độ cao, giao phối vào buổi sáng và có thể giao phối nhiều lần trong
ngày, đẻ trứng từ trưa đến 3-4 h chiều. Trứng thường được đẻ vào những đoạn
gốc vào giữa thân, các chỗ mắt cành (những chỗ có nhiều vết nứt nhất) vết nứt
hẹp và sâu, rải rác từng quả cũng có khi từ 2-9 trứng hoặc hàng chục quả ở một
nơi. Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 1-15 ngày. Số lượng trứng đẻ của một con cái
tùy theo tháng. Thường vào tháng 4-5 tháng trứng đẻ nhiều nhất. Tháng 4 bình
quân một con cái đẻ 87.2 trứng, tháng 5 là 10.2 trứng (tối đa là 364 trứng).
Trưởng thành sống trung bình 10-14 ngày, tối đa là 34 ngày. Mùa hè trưởng
thành sống ngắn hơn mùa đông, con cái sống lâu hơn con đực. Sâu non sau nở
1-2 ngày thì đục vào vỏ. Sâu đục quanh phần vỏ đa số là tuổi 1 (95.8%). Khi sâu
đục vào phần giáp vỏ và gỗ đa số là sâu non tổi 2 (72.9%). Khi sâu có kích
thước trên 6mm (tuổi 3) mới bắt đầu đục vào phần gỗ của cây. Nói chung sâu
non trên 5 ngày phần lớn đã đục vào gỗ, nhưng ở phần ngọn thân, sâu non
thường đục vào gỗ sớm hơn. Khi sâu đã đục hẳn vào trong phần gỗ thì sự phân
bố của sâu giữa phần gốc, phần giữa và phần ngọn của thân chính không có sự
chênh lệch đáng kể. Đường đục trong cây cà phê nhỏ thường là thẳng, nhưng
thân cây có đường kính trên 35cm (cà phê 2 năm tuổi thường có đường đục
ngoằn ngoèo, có nhiều nhánh ngang, có thể là đường đục lên xuống). Đến tuổi
5-6 sâu non đẫy sức thường đục 1 đường đi lên phía trên thân cây cà phê và dịch
ra phía ngoài sát vỏ. Khi giáp với vỏ thì đục một khoang rộng như một cái túi và
quay đầu trở ra nằm im ở đó để hóa nhộng. Tỷ lệ nhộng nằm ở phần sát vỏ
chiếm 96.3%. Thời gian chuyển hóa các giai đoạn của sâu non từ lúc có màu
vàng nghệ đến lúc chuẩn bị nhộng từ 9.3-16.5 ngày (khi nhiệt độ trung bình 24-
25
0
C) . Từ nhộng đến trưởng thành từ 10-25 ngày (khi nhiệt độ trung bình từ
23.6-26
0
C). Để hoàn thành một vòng đời (từ trứng đến trưởng thành đẻ) cần
200-211 ngày ở vụ đông và 126-127 ngày ở vụ hè (Giáo trình côn trùng nông
nghiệp, ĐH Nông Nghiệp I) [5].
- Thiên địch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét