Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty TNHH xây dựng và thương mại vật liệu Vĩnh Cửu

Khoá luận tốt nghiệp
Nội dung của khóa luận ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương sau:
Chương I : Một số vấn đề lý luận chung về kế toỏn tiền lương và các
khoản trích theo lương trong doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng kế toán tiền lương và các khoản trích theo
lương tại công ty TNHH xây dựng và thương mại vật liệu Vĩnh Cửu.
Chương III: Một số kiến nghị để hoàn thiện kế toán tiền lương và các
khoản trích theo lương tại công ty TNHH xây dựng và thương mại vật liệu
Vĩnh Cửu.
5
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN
TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Lý luận về tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.1.1. Tiền lương
1.1.1.1. Khỏi niệm.
- Theo quan niệm của Mác: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị
sức lao động.
- Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả
của lao động, được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Ở Việt nam trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, tiền lương được hiểu là
một bộ phận thu nhập quốc dân dùng để bù đắp hao phí lao động tất yếu do Nhà
nước phân phối cho công nhân viên chức bằng hình thức tiền tệ phù hợp với quy
luật phân phối theo lao động. Hiện nay theo Điều 55 - Bộ Luật Lao Động Việt
Nam quy định tiền lương của người lao động là do hai bên thoả thuận trong hợp
đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công
việc. Mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định hiện nay là 730.000 đồng/ tháng.
- Tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội biểu hiện bằng tiền được
trả cho người lao động dựa trên số lượng và chất lượng lao động của họ dùng để
bù đắp lại hao phí lao động của mọi người dùng để bù đắp lại hao phí lao động
của họ và nó là một vấn đề thiết thực đối với cán bộ công nhân viên.Tiền lương
được quy định một cách đúng đắn, là yếu tố kích thích sản xuất mạnh mẽ, nó
kích thích người lao động và làm việc, nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến kỹ
thuật nhằm nâng cao năng suất lao động.
- Người lao động sau khi sử dụng sức lao động tạo ra sản phẩm thì được
trả một số tiền công nhất định. Xét về hiện tượng ta thấy sức lao động được đem
trao đổi để lấy tiền công. Vậy có thể coi sức lao động là hàng hoá, một loại hàng
hoá đặc biệt. Và tiền lương chính là giá cả của hàng hoá đặc biệt đó, hàng hoá
6
Khoá luận tốt nghiệp
sức lao động. Vì hàng hoá sức lao động cần được đem ra trao đổi trên thị trường
lao động trên cơ sở thoả thuận giữa người mua với người bán, chịu sự tác động
của quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Do đó giá cả sức lao động sẽ biến đổi
theo giá cả của các yếu tố cấu thành cũng như quan hệ cung cầu về lao động.
Như vậy khi coi tiền công là giá trị của lao động thì giá cả này sẽ hình thành trên
cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao
động hay tiền công có thể tăng hoặc giảm phụ thuộc vào cung cầu hàng hoá sức
lao động. Như vậy giá cả tiền công thường xuyên biến động nhưng nó phải xoay
quanh giá trị sức lao động cung như các loại hàng hoá thông thường khác, nó
đòi hỏi một cách khách quan yêu cầu tính đúng, tính đủ giá trị của nó. Mặt khác
giá tiền công có biến động như thế nào thì cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu
để người lao động có thể tồn tại và tiếp tục lao động.
- Mặt khác tiền lương còn là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất sản
phẩm do vậy giá trị của sức lao động (tiền lương) còn phụ thuộc vào giá cả của
sản phẩm khi được tiêu thụ trên thị trường.
1.1.1.2. Bản chất và chức năng của tiền lương.
a. Bản chất phạm trù tiền lương theo cơ chế thị trường.
Trong nhiều năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn. Song tình hình thực tế cho thấy rằng sự đổi mới một số
lĩnh vực xã hội còn chưa kịp với công cuộc đổi mới chung nhất của đất nước.
Vấn đề tiền lương cũng chưa tạo được động lực phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay có nhiều ý thức khác nhau về tiền lương, song quan niệm thống
nhất đều coi sức lao động là hàng hoá. Mặc dù trước đây không được công nhận
chính thức, thị trường sức lao động đã được hình thành từ lâu ở nước ta và hiện
nay vẫn đang tồn tại khá phổ biến ở nhiều vùng đất nước. Sức lao động là một
trong các yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản, của quá trình sản xuất, nên tiền
lương, tiền công là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là giá cả sức lao động. Vì
vậy việc trả công lao động được tính toán một cách chi tiết trong hạch toán kinh
doanh của các đơn vị cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế. Để xác định tiền lương
7
Khoá luận tốt nghiệp
hợp lí cần tìm ra cơ sở để tính đúng ,tính đủ giá trị của sức lao động. Người lao
động sau khi bỏ ra sức lao động,tạo ra sản phẩm thì được một số tiền công nhất
định. Vậy có thể coi sức lao động là một loại hàng hoá,một loại hàng hoá đặc biệt.
Tiền lương chính là giá cả hàng hoá đặc biệt đó - hàng hoá sức lao động.
Hàng hoá sức lao động cũng có mặt giống như mọi hàng hoá khác là có
giá trị. Người ta định giá trị ấy là số lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất
ra nó. Sức lao động gắn liền với con người nên giá trị sức lao động được đo
bằng giá trị các tư liệu sinh hoạt đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống (ăn, ở,
học hành,đi lại ) và những nhu cầu cao hơn nữa. Song nó cũng phải chịu tác
động của các quy luật kinh tế thị trường.
Vì vậy, về bản chất tiền công, tiền lương là giá cả của hàng hoá sức lao
động, là động lực quyết định hành vi cung ứng sức lao động. Tiền lương là một
phạm trù của kinh tế hàng hoá và chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách
quan. Tiền lương cũng tác động đến quyết định của các chủ doanh nghiệp để
hình thành các thoả thuận hợp đồng thuê lao động.
b. Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp và bao gồm các chức năng sau:
- Tiền lương là công cụ để thực hiện các chức năng phân phối thu nhập
quốc dân, các chức năng thanh toán giữa người sử dụng sức lao động và người
lao động.
- Tiền lương nhằm tái sản xuất sức lao động thông qua việc trao đổi tiền
tệ do thu nhập mang lại với các vật dụng sinh hoạt cần thiết cho người lao động
và gia đình họ.
- Kích thích con người tham gia lao động, bởi lẽ tiền lương là một bộ
phận quan trọng của thu nhập, chi phối và quyết định mức sống của người lao
động. Do đó tiền lương là công cụ quan trọng trong quản lí. Người ta sử dụng nó
để thúc đẩy người lao động hăng hái lao động và sáng tạo, coi như là một công
cụ tạo động lực trong sản xuất kinh doanh.
1.1.1.3. Vai trũ và ý nghĩa của tiền lương.
8
Khoá luận tốt nghiệp
a. Vai trò của tiền lương.
Về mặt sản xuất và đời sống tiền lương có 4 vai trò cơ bản sau đây.
9
Khoá luận tốt nghiệp
* Vai trò tái sản suất sức lao động
Sức lao động là một dạng công năng sức cơ bắp và tinh thần tồn tại trong
cơ thể con người, là một trong các yếu tố thuộc “đầu vào” của sản xuất. Trong
quá trình lao động sức lao động bị hao mòn dần với quá trình tạo ra sản phẩm do
vậy tiền lương trước hết phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Đây là yêu cầu
tất yếu không phụ thuộc vào chế độ xã hội, là cơ sở tối thiểu đầu tiên đảm bảo
sự tác động trở lại của phân phối tới sản xuất.
Sức lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất để đảm bảo
tái sản xuất và sức lao động cũng như lực lượng sản suất xã hội, tiền lương cần
thiết phải đủ nuôi sống người lao động và gia đình họ. Đặc biệt là trong điều
kiện lương là thu nhập cơ bản.
Để thực hiện chức năng này, trước hết tiền lương phải được coi là giá cả
sức lao động.Thực hiện trả lương theo việc, không trả lương theo người, đảm
bảo nguyên tắc phân phối theo lao động. Mức lương tối thiểu là nền tảng của
chính sách tiền lương và tiền công, có cơ cấu hợp lí về sinh học, xã hội học…
Đồng thời người sử dụng lao động không được trả công thấp hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước qui định.
* Vai trò kích thích sản xuất:
Trong quá trình lao động, lợi ích kinh tế là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
hoạt động của con người là động lực mạnh mẽ nhất của tiến bộ kinh tế xã hội.
Trong 3 loại lợi ích: xã hội, tập thể, người lao động thì lợi ích cá nhân người lao
động là động lực trực tiếp và quan trọng đối với sự phát triển kinh tế.
Lợi ích của người lao động là động lực của sản xuất. Chính sách tiền
lương đúng đắn là động lực to lớn nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con
người trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Vì vậy tổ chức tiền
lương và tiền công thúc đẩy và khuyến khích người lao động nâng cao nâng
suất, chất lượng và hiệu quả của lao động bảo đảm sự công bằng và xã hội trên
cơ sở thực hiện chế độ trả lương. Tiền lương phải đảm bảo:
• Khuyến khích người lao động có tài năng.
10
Khoá luận tốt nghiệp
• Nâng cao trình độ văn hoá và nghiệp vụ cho người lao động.
• Khắc phục chủ nghĩa bình quân trong phân phối, biến phân phối trở
thành một động lực thực sự của sản xuất.
* Vai trò thước đo giá trị:
Thước đo giá trị là cơ sở điều chỉnh giá cả cho phù hợp. Mỗi khi giá cả
biến động, bao gồm cả giá cả sức lao động hay nói cách khác tiền lương là giá
cả sức lao động, là một bộ phận của sản phẩm xã hội mới được sáng tạo nên.
Tiền lương phải thay đổi phù hợp với sự dao động của giá cả sức lao động.
* Vai trò tích luỹ:
Bảo đảm tiền lương của người lao động không những duy trì được cuộc
sống hàng ngày mà còn có thể dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả
năng lao động hoặc xảy ra bất trắc.
b. Ý nghĩa của tiền lương.
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Ngoài ra người
lao động còn được hưởng một số nguồn thu nhập khác như: Trợ cấp BHXH, tiền
thưởng, tiền ăn ca… Chi phí tiền lương là một bộ phận chi phí cấu thành nên giá
thành sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Tổ chức sử dụng lao động
hợp lý, hạch toán tốt lao động, trên cở sở đó tính đúng thù lao lao động, thanh
toán kịp thời tiền lương và các khoản liên quan từ đó kích thích người lao động
quan tâm đến thời gian, kết quả và chất lượng lao động, chấp hành tốt kỷ luật
lao động, nâng cao năng suất lao động, góp phần tiết kiện chi phí về lao động
sống, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp đồng thời tạo
điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
1.1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương.
* Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung - cầu lao động ảnh
hưởng trực tiếp đến tiền lương.
+ Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu
hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu
hướng tăng, còn khi cung về lao động bằng với cầu lao động thì thị trường lao
11
Khoá luận tốt nghiệp
động đạt tới sự cân bằng. Tiền lương lúc này là tiền lương cân bằng, mức tiền
lương này bị phá vỡ khi các nhân tố ảnh hưởng tới cung cầu về lao động thay
đổi như (năng suất biên của lao động, giá cả của hàng hoá, dịch vụ …).
+ Khi chi phí sinh hoạt thay đổi, do giá cả hàng hoá, dịch vụ thay đổi sẽ
kéo theo tiền lương thực tế thay đổi. Cụ thể khi chi phí sinh hoạt tăng thì tiền
lương thực tế sẽ giảm. Như vậy buộc các đơn vị, các doanh nghiệp phải tăng
tiền lương danh nghĩa cho công nhân để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người
lao động, đảm bảo tiền lương thực tế không bị giảm.
+ Trên thị trường luôn tồn tại sự chênh lệch tiền lương giữa các khu vực
tư nhân, Nhà nước, liên doanh … chênh lệch giữa các ngành, giữa các công việc
có mức độ hấp dẫn khác nhau, yêu cầu về trình độ lao động cũng khác nhau. Do
vậy, Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết tiền lương cho hợp lý.
* Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp:
+ Các chính sách của doanh nghiệp: các chính sách lương, phụ cấp, giá
thành…được áp dụng triệt để phù hợp sẽ thúc đẩy lao động nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả, trực tiếp tăng thu nhập cho bản thân.
+ Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền
lương.Với doanh nghiệp có khối lượng vốn lớn thì khả năng chi trả tiền lương
cho người lao động sẽ thuận tiện dễ dàng. Còn ngược lại nếu khả năng tài chính
không vững thì tiền lương của người lao động sẽ rất bấp bênh.
+ Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tiền
lương.Việc quản lý được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra sao
để giám sát và đề ra những biện pháp kích thích sự sáng tạo trong sản xuất của
người lao động để tăng hiệu quả, năng suất lao động góp phần tăng tiền lương.
*Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động:
+ Trình độ lao động:Với lao động có trình độ cao thì sẽ có được thu nhập
cao hơn so với lao động có trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người
lao động phải bỏ ra một khoản chi phí tương đối cho việc đào tạo đó. Có thể đào
tạo dài hạn ở trường lớp cũng có thể đào tạo tại doanh nghiệp. Để làm được
12
Khoá luận tốt nghiệp
những công việc đòi hỏi phải có hàm lượng kiến thức, trình độ cao mới thực
hiện được, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp thì việc hưởng lương
cao là tất yếu.
+ Thâm niên công tác và kinh nghiệm làm việc thường đi đôi với nhau.
Một người qua nhiều năm công tác sẽ đúc rút được nhiều kinh nghiệm, hạn chế
được những rủi ro có thể xảy ra trong công việc, nâng cao bản lĩnh trách nhiệm
của mình trước công việc đạt năng suất chất lượng cao vì thế mà thu nhập của
họ sẽ ngày càng tăng lên.
+ Mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay
không đều ảnh hưởng ngay đến tiền lương của người lao động.
* Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc:
+ Mức hấp dẫn của công việc: công việc có sức hấp dẫn cao thu hút được
nhiều lao động, khi đó doanh nghiệp sẽ không bị sức ép tăng lương, ngược lại
với công việc kém hấp dẫn để thu hút được lao động doanh nghiệp phải có biện
pháp đặt mức lương cao hơn.
+ Mức độ phức tạp của công việc: Với độ phức tạp của công việc càng
cao thì định mức tiền lương cho công việc đó càng cao. Độ phức tạp của công
việc có thể là những khó khăn về trình độ kỹ thuật, khó khăn về điều kiện làm
việc, mức độ nguy hiểm cho người thực hiện do đó mà tiền lương sẽ cao hơn so
với công việc giản đơn.
+ Điều kiện thực hiện công việc: tức là để thực hiện công việc cần xác
định phần việc phải làm, tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện công việc, cách thức làm
việc với máy móc, môi trường thực hiện khó khăn hay dễ dàng đều quyết định
đến tiền lương.
+ Yêu cầu của công việc đối với người thực hiện là cần thiết, rất cần thiết
hay chỉ là mong muốn mà doanh nghiệp có quy định mức lương phù hợp.
* Các nhân tố khác: Ở đâu có sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ
tuổi, thành thị và nông thôn, ở đó có sự chênh lệch về tiền lương rất lớn, không
13
Khoá luận tốt nghiệp
phản ánh được mức lao động thực tế của người lao động đã bỏ ra, không đảm
bảo nguyên tắc trả lương nào cả nhưng trên thực tế vẫn tồn tại.
Sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ảnh hưởng tới
tiền lương của lao động.
1.1.1.5. Nguyên tắc tính lương.
a. Những cơ sở pháp lí của việc quản lí tiền lương trong doanh nghiệp.
- Quy định của nhà nước về chế độ trả lương:
Năm 1960 lần đầu tiên nhà nước ta ban hành chế độ tiền lương áp dụng
cho công chức, viên chức, công nhân thuộc các lĩnh vực của doanh nghiệp
hoạt động khác nhau. Nét nổi bật trong chế độ tiền lương này là nó mang tính
hiện vật sâu sắc, ổn định và quy định rất chi tiết, cụ thể:
Năm 1985 với nghị định 235 HĐBT ngày 18/4/1985 đã ban hành một chế
độ tiền lương mới thay thế cho chế độ tiền lương năm 1960. Ưu điểm của chế độ
tiền lương này là đi từ nhu cầu tối thiểu để tính mức lương tối thiểu song nó vẫn
chưa hết yếu tố bao cấp mang tính cứng nhắc và thụ động.
Ngày 23/5/1993 chính phủ ban hành các nghị định NĐ25/CP, NĐ26/CP
quy định tạm thời chế độ tiền lương mới đối với các doanh nghiệp với mức tiền
lương tối thiểu là 144.000 đồng/người/tháng.
Những văn bản pháp lí trên đây đều xây dựng một chế độ trả lương cho
người lao động, đó là chế độ trả lương cấp bậc.
Tiền lương cấp bậc là tiền lương áp dụng cho công nhân căn cứ vào số
lượng và chất lượng lao động của công nhân.
Hệ số tiền lương cấp bậc là toàn bộ những quy định của Nhà nước mà
doanh nghiệp dựa vào đó để trả lương cho công nhân theo chất lượng và điều
kiện lao động khi họ hoàn thành một công việc nhất định.
Chế độ tiền lương cấp bậc tạo khả năng điều chỉnh tiền lương giữa các
nghành, các nghề một cách hợp lí, hạn chế được tính chất bình quân trong việc
trả lương, đồng thời còn có tác dụng bố trí công việc thích hợp với trình độ lành
nghề của công nhân.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét