Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

Luận văn thạc sỹ: "Phát triển thị trường vốn mạo hiểm Việt Nam"

DANH SÁCH BẢNG VÀ HÌNH
Danh sách bảng:

Bảng 1: Các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam 1991-1996 27
Bảng 2: Các quỹ đầu tư vào VN thành lập năm 2007 30
Bảng 3: Phân loại các quỹ đầu tư 31
Bảng 4: Vốn đầu tư vào 3 khu vực doanh nghiệp năm 2006 ( đơn vò tỷ đồng) 48
Bảng 5: Tốc độ tăng vốn đầu tư của các khu vực kinh tế (% so với năm trước, giá so
sánh năm 1994) 49
Bảng 6: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với một số nước (2001-
2006) 51
Bảng 7: Qui mô niêm yết thò trường chứng khoán Việt Nam cuối năm 2007 56
Bảng8 : Một số dữ liệu Việt Nam từ 2000 – 2007 60
Bảng 9: Dự báo mức thu ngành bảo hiểm 67


Danh sách hình:

Hình 1: Qui mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam 1991 đến 2002 (đơn vò: triệu $) .27
Hình 2:Vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam 2002 đến năm 2006 29
Hình 3: Cơ cấu số lượng của 3 khu vực doanh nghiệp năm 2007. 46
Hình 4: Cơ cấu lónh vực đầu tư năm 2006 46
Hình 5:Vốn đầu tư thực hiện của 3 khu vực kinh tế, theo giá so sánh (tỷ đồng) 48
Hình 6: Tốc độ tăng vốn đầu tư của các khu vực kinh tế (% so với năm trước, giá so
sánh năm 1994) 49
Hình 7: Đóng góp của từng khu vực trong tổng đầu tư 50
Hình 8: Tỷ trọng cho vay của từng nhóm tổ chức tín dụng (năm 2006) 54
Hình 9: Tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế Việt Nam 55
Hình 10 : Tỷ trọng khối lïng và giá trò của TTCK Việt Nam cuối 2007 57

Lời mở đầu
Lý do chọn đề tài
Trong xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế toàn
cầu đang diễn ra hiện nay, thì nhu cầu về vốn trở thành một vấn đề thiết yếu đối với
tất cả các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Ở nước ta, để đáp ứng nhu cầu này, Nhà Nước đã có rất nhiều nổ lực trong việc
tạo ra các nguồn cung vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế, ví như hoàn thiện hệ thống
ngân hàng, phát triển thò trường chứng khoán…. Tuy nhiên, những qui đònh về qui mô
vốn điều lệ, hiệu quả hoạt động kinh doanh, tài sản thế chấp và mức độ rủi ro… luôn
là những rào cản trên con đường tìm vốn để thành lập doanh nghiệp cũng như mở
rộng qui mô hoạt động. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa, nhỏ, các doanh
nghiệp có tiềm năng, có lợi nhuận khổng lồ nhưng rủi ro cực lớn…Kết quả, nhu cầu
về nguồn vốn mới cho các doanh nghiệp này ngày càng tăng .
Nhận thấy được tiềm năng ở một thò trường mới nỗi như Việt Nam, ngay từ
những năm 1990 các tổ chức nước ngoài đã thâm nhập vào thò trường tài chính nước
ta. Với qui mô vốn lớn và năng lực quản trò cao, họ đã mạnh dạn thành lập một số quỹ
đầu tư mạo hiểm. Trên phương diện lý thuyết, có thể nói vốn mạo hiểm là lối thoát
cho các doanh nghiệp cả về vốn lẫn kinh nghiệm quản lý, do vậy tất yếu các quỹ đầu
tư mạo hiểm sẽ thành công và phát triển. Song trên thực tế do những nguyên nhân
khách quan cũng như chủ quan, các quỹ này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho
nền kinh tế nói chung cũng như cho các doanh nghiệp nói riêng.
Chính vì vậy, việc tìm kiếm các giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
hoạt động của thò trường vốn mạo hiểm là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển thò trường vốn mạo
hiểm Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu là tôi muốn đưa ra cái nhìn tổng thể về thực
trạng cung cầu, sự cần thiết và triển vọng phát triển của vốn mạo hiểm ở nước ta
cũng như những hạn chế đang là rào cản trong việc thu hút nguồn vốn này. Từ đó tìm
kiếm, thu thập, chọn lọc và kiến nghò những giải pháp nhằm hoàn thiện thò trường vốn
mạo hiểm. Trong đó, tiên quyết đề xuất thành lập, xây dựng mô hình một quỹ đầu tư
mạo hiểm theo cơ cấu quỹ nội đòa bởi những ưu điểm của nó so với quỹ hải ngoại.
Phạm vi nghiên cứu
Trong chuyên đề này, tôi tập trung nghiên cứu cung cầu vốn mạo hiểm ở Việt
Nam. Ngoài ra còn xem xét thực trạng vốn mạo hiểm ở một số nước để có cái nhìn
khái quát, tương quan so sánh và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, chuyên đề gồm có 3 phần chính sau:
Phần 1: Tổng quan về vốn mạo hiểm.
Phần 2: Thò trường vốn mạo hiểm Việt Nam-Thực trạng và nhu cầu.
Phần 3: Các giải pháp để phát triển thò trường vốn mạo hiểm Việt Nam.

Trang: 1


CHƯƠNG I
T
T
O
O
Å
Å
N
N
G
G


Q
Q
U
U
A
A
N
N


V
V
E
E
À
À


V
V
O
O
Á
Á
N
N


M
M
A
A
Ï
Ï
O
O


H
H
I
I
E
E
Å
Å
M
M
1.1. Đònh Nghóa Về Vốn Mạo Hiểm Và Quỹ Đầu Tư Mạo Hiểm
Vốn mạo hiểm
Tuy sự xuất hiện của vốn mạo hiểm là khá sớm nhưng nó còn rất mới mẽ với
nhiều người. Hiện nay do những khác biệt trong cơ chế huy động cũng như sử dụng nên
vốn mạo hiểm vẫn chưa có một đònh nghóa chung hoàn toàn thống nhất. Theo một
nghiên cứu của chương trình dự án phát triển sông Mêkông của Adam Sack và John
McKenzie thì có hai đònh nghóa về vốn mạo hiểm được sử dụng rộng rãi: một theo nghóa
rộng, một theo nghóa hẹp.
Theo nghóa rộng: Vốn mạo hiểm là nguồn tài chính cung cấp cho các doanh
nghiệp dưới hình thức vốn cổ phần và các khoản đầu tư gần giống vốn cổ phần, có thời
hạn trung bình (3-5 năm). Mục tiêu đầu tư là tìm kiếm được khoản thu nhập vốn cao
hơn mức trung bình. Bên cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm
còn tư vấn ở cấp chiến lược, hướng dẫn các doanh nghiệp nhận vốn đầu tư bước sang
giai đoạn tăng trưởng tiếp theo và chuẩn bò sẵn sàng để doanh nghiệp được chuyển giao
cho các cổ đông khác. Thuật ngữ vốn mạo hiểm trong đònh nghóa này có thể được sử
dụng cùng nghóa với thuật ngữ vốn cổ phần tư nhân.
Theo nghóa hẹp: Vốn mạo hiểm là các khoản đầu tư vốn cổ phần tư nhân trung
hạn vào các doanh nghiệp nhận vốn chưa trưởng thành. Nói cách khác doanh nghiệp
được đầu tư đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển sản phẩm, phát triển năng
lực sản suất hoặc cung cấp dòch vụ. Vì các doanh nghiệp trong giai đoạn này có xu
hướng lòch sử phát triển ngắn hơn và quy mô nhỏ hơn so với đa số các khoản đầu tư nêu
trong đònh nghóa rộng, nên rủi ro có xu hướng cao hơn. Và do vậy các chuyên gia quản
lý vốn mạo hiểm sẽ tìm kiếm các khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn.
Sự khác biệt giữa hai đònh nghóa này là mức độ trưởng thành của doanh nghiệp
nhận vốn đầu tư. Không có quy tắc, chuẩn mực rõ ràng nào (chẳng hạn một mức doanh
số ấn đònh) để phân biệt hai loại doanh nghiệp này.
Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm
Quỹ đầu tư mạo hiểm là một hình thức của quỹ đầu tư tài chính. Quỹ huy động tiền
tư các chủ thể khác nhau, đặt dưới sự quản lý của các tổ chức chuyên môn quản lý đầu tư.
Tiền huy động được đầu tư vào các doanh nghiệp đang trong giai đoạn khởi sự hoặc tăng
trưởng cao. Ngoài việc đầu tư tiền, công ty quản lý quỹ còn đầu tư kỹ năng quản lý vào
các doanh nghiệp nhận vốn để đảm bảo tính hiệu quả của các doanh nghiệp này.
Trang: 2


1.2 Phân Loại Quỹ Đầu Tư Mạo Hiểm
1.2.1 Dựa Vào Cách Thức Huy Động Vốn
Dựa trên cách thức huy động vốn của quỹ, chúng ta có thể chia quỹ thành hai loại:
Quỹ đầu tư dạng đóng
Quỹ chỉ phát hành cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư ra công chúng tại những thời điểm
đònh sẵn với số lượng nhất đònh và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu, chứng chỉ
đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, cổ
phiếu đầu tư được giao dòch như các chứng khoán niêm yết khác trên thò trường tập trung
(sở giao dòch chứng khoán). Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phần
hoặc chứng chỉ đầu tư của họ trên thò trường thứ cấp thông qua các nhà môi giới.
Quỹ đầu tư dạng mở
Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư ra công chúng và thực hiện mua
lại cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư khi người đầu tư có nhu cầu thu hồi vốn. Đặc điểm quan
trọng đối với quỹ đầu tư dạng mở là giá của cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư của quỹ luôn gắn
trực tiếp với giá trò tài sản thuần của quỹ. Cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư của quỹ dạng mở
không giao dòch trên thò trường thứ cấp mà giao dòch với quỹ hoặc các đại lý được ủy
quyền.
Có thể nêu những điểm khác nhau cơ bản giữa quỹ đầu tư dạng mở và quỹ đầu tư
dạng đóng như sau:
Q
UỸ ĐẦU TƯ DẠNG ĐÓNG
Q
UỸ ĐẦU TƯ DẠNG MỞ

Số lượng chứng khoán hiện hành cố
đònh.
Số lượng chứng khoán hiện hành luôn
thay đổi.
Chào bán ra công chúng tại những
thời điểm nhất đònh
Chào bán ra công chúng liên tục
Không mua lại số chứng khoán đã
phát hành
Quỹ sẵn sàng mua lại chứng khoán đã
phát hành theo giá trò tài sản thuần.
Chứng khoán được phép giao dòch
trên thò trường chứng khoán chính
thức hay phi chính thức.
Chứng khoán không giao dòch trên thò
trường chứng khoán mà được mua trực
tiếp từ quỹ đầu tư, người bảo lãnh phát
hành hay người môi giới, thương gia.
Giá mua được xác đònh bởi lượng
cung cầu.
Giá mua là giá trò tài sản thuần cộng với
lệ phí bán .
Trang: 3


1.2.2 Dựa Vào Cơ Cấu Tổ Chức
Phân tích cơ cấu tổ chức của quỹ, có thể chia quỹ thành ba loại:
Quỹ đầu tư dạng công ty cổ phần
Trong mô hình này quỹ đầu tư là một pháp nhân đầy đủ, tức là một công ty được
hình thành theo qui đònh của pháp luật. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng
quản trò quỹ. Các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ là các cổ đông và họ có quyền bầu ra các
thành viên hội đồng quản trò. Các tổ chức tham gia vào cơ cấu hoạt động của quỹ đầu tư
dạng công ty là công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản. Ngoài ra tùy từng nước còn có
sự tham gia của các đại lý chuyển nhượng và nhà bảo lãnh phát hành.
Hội đồng quản trò của quỹ đầu tư do các cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản
lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư
của công ty quản lý quỹ, hàng năm xem xét lại hoặc từ chối các hợp đồng với các công ty
quản lý quỹ hoạt động không có hiệu quả.
Công ty quản lý quỹ có nhiệm vụ tiến hành hoạt động đầu tư, mua hoặc bán các
khoản đầu tư phù hợp với mục tiêu do quỹ đề ra dưới sự giám sát của hội đồng quản trò
quỹ. Ngoài ra, công ty quản lý quỹ trong mô hình này còn thực hiện luôn chức năng tư
vấn đầu tư cho quỹ. Các công ty quản lý quỹ được hưởng một tỷ lệ phí quản lý nhất đònh
khi họ tiến hành các hoạt động đầu tư cho quỹ.
Ngân hàng bảo quản là nơi giữ và bảo quản tài sản của quỹ, đồng thời tiến hành
giao hoặc nhận các chứng khoán cho quỹ.
Đại lý chuyển nhượng thường được ủy nhiệm để tiến hành việc bán hoặc mua lại
cổ phần của quỹ (nếu quỹ đó là quỹ dạng mở).
Nhà bảo lãnh phát hành giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các
nhà đầu tư.
Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Quỹ còn được gọi là quỹ tín thác đầu tư. Trong mô hình này, quỹ đầu tư không
phải là một pháp nhân mà chỉ là một lượng tiền nhất đònh do các nhà đầu tư đóng góp.
Mô hình này thể hiện rõ ở vai trò của ba bên tham gia vào hoạt động của quỹ: công ty
quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và các nhà đầu tư.
Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành huy động vốn, thực hiện việc
đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ.
Ngân hàng giám sát: ngoài vai trò giám sát, bảo quản vốn và tài sản của quỹ, ngân
hàng giám sát còn làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ, đảm bảo
việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đầu tư đã đề ra. Quan hệ giữa công ty quản lý
quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp đồng quản lý giám sát, trong đó qui
Trang: 4


đònh quyền lợi và nghóa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để
bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư góp vốn bằng việc mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý
quỹ thay mặt quỹ phát hành. Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải là các cổ đông
như mô hình công ty mà chỉ đơn giản là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ
hoạt động đầu tư của quỹ.
Có thể tóm gọn sự khác biệt giữa quỹ dạng công ty cổ phần và quỹ dạng hợp đồng
như sau:
Q
UỸ ĐẦU TƯ DẠNG C
.
TY CỔ PHẦN
Q
UỸ ĐẦU TƯ DẠNG HP ĐỒNG

Có tư cách pháp nhân. Không có tư cách pháp nhân.
Nhà đầøu tư là cổ đông của công ty.

Nhà đầu tư không phải là cổ đông của
công ty mà chỉ là những người thụ
hưởng.
Có hội đồng quản trò do các cổ
đông của quỹ bầu ra.
Không có hội đồng quản trò của quỹ.
Hội đồng quản trò của quỹ là người
đóng vài trò quyết đònh đầu tư, còn
công ty quản lý quỹ chỉ là người
thực hiện đầu tư.
Công ty quản lý là người quyết đònh và
thực hiện đầu tư, chỉ cần đảm bảo tuân
theo điều lệ quỹ.
Vai trò của ngân hàng tham gia là
giữ và tiến hành giao nhận chứng
khoán của quỹ.
Ngân hàng tham gia có vai trò quan
trọng: ngoài việc giữ và bảo quản tài sản
quỹ còn giám sát công ty quản lý quỹ,
lập báo cáo tài chính.
Quỹ đầu tư dạng công ty con
Hai mô hình trên là hai mô hình phổ biến nhất hiện nay trên thế giới, ngoài ra
còn có quỹ đầu tư dạng công ty con. Đây là quỹ đầu tư trực thuộc các đònh chế tài
chính, các tập đoàn kinh tế lớn. Những quỹ đầu tư dạng này giúp cho các công ty mẹ
tham gia vào quá trình phát triển của những doanh nghiệp khởi sự, và cung cấp những
phát minh sáng chế cho công ty mẹ. Tuy nhiên hình thức này cũng hàm chứa nhiều hạn
chế ( phụ lục 7).
Trang: 5


1.2.3 Dựa Vào Nguồn Huy Động Vốn
Có hai loại quỹ: quỹ nội đòa và quỹ hải ngoại. Chúng tôi sẽ xoáy sâu vào phân tích đặc
điểm của hai loại quỹ này, so sánh thế mạnh và hạn chế của từng quỹ ở những phần
sau.
Quỹ hải ngoại :Nguồn vốn huy động vào quỹ 100% là nguồn vốn nước ngoài. Quỹ được
quản lý bởi các chuyên gia quản lý vốn quốc tế. Cơ cấu của quỹ :

Quỹ nội đòa: Yếu tố then chốt của quỹ nội đòa là sẽ huy động vốn trong nước để đầu tư
vào các công ty trong nước và những quỹ này sẽ do các chuyên gia trong nước quản lý là
chính.
Cơ cấu của quỹ:
Các nhà đầu tư nước ngoài
Công ty quản
l
ý quỹù
Quỹ hải ngoại
Công cụ đặc dụng*
(hải ngoại)
Công ty TNHH Công ty cổ phần
Công ty cổ phần hoá
Trang: 6


* Công cụ đặc dụng là một công ty con do công ty quản lý quỹ thành lập, công cụ đặc
dụng sẽ nắm giữ cổ phiếu của các công ty mà quỹ muốn đầu tư. Ưu điểm của việc đầu tư
thông qua công cụ đặc dụng: hưởng được lợi về thuế nếu thành lập ở những nơi thuế suất
trên lãi vốn thấp, hoặc miễn thuế. Sổ sách kế toán tách riêng, rất dễ dàng trong việc thu
hồi vốn bằng cách bán cả công ty.
1.3 Đặc Trưng Của Quỹ Đầu Tư Vốn Mạo Hiểm
Dù được thể hiện dưới bất kỳ đònh nghóa hoặc mô hình nào, quỹ đầu tư vốn mạo
hiểm cũng có mot số đặc trưng chung như sau:
Được quản lý một cách chuyên nghiệp
Vốn mạo hiểm là một khoản tiền được quản lý một cách chuyên nghiệp. Tuy mang
mức độ rủi ro cao, vốn mạo hiểm có đường hướng mục tiêu phát triển cụ thể, chiến lược
đầu tư rõ ràng như: lónh vực, ngành nghề đầu tư mục tiêu, danh mục đầu tư tối ưu, điều
kiện tiêu chuẩn mà đối tượng nhận đầu tư cần có… Các nhà tư bản mạo hiểm (tổ chức, cá
nhân) trên thực tế là những chuyên gia thay mặt cho một tập hợp các nhà đầu tư để tiến
hành đầu tư theo một cách thức xác đònh và có cấu trúc rõ ràng.
Lợi nhuận ngoạn mục, rủi ro đáng kể
Như chúng ta đã biết, đầu tư là hoạt động hy sinh những giá trò hiện tại để đạt
được những giá trò không chắc chắn trong trong tương lai. Nhưng khác với đầu tư thông
thường, mục tiêu của đầu tư vốn mạo hiểm là kiếm được các khoản thu nhập vốn vượt
trội hơn mức trung bình. Vốn mạo hiểm chủ yếu đầu tư vào những người khổng lồ trong
thời thơ ấu. Đó là những công ty mới, thường là trước khi đạt được khả năng thu lợi
nhuận, trước khi bán được một sản phẩm nào đó và thậm chí trước khi phát triển được
sản phẩm, nhưng phải sẵn sàng theo đuổi một con đường tăng trưởng nhanh. Các nhà tư
Công ty quản lý
quỹù
Các nhà đầu tư nước ngoài
(thiểusố)
Quỹ nội đòa
Công cụ đặc dụng*
(nội đòa)
Công ty TNHH
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần hoá
Các nhà đầu tư trong nước
(đa số)
Trang: 7


bản mạo hiểm nắm giữ các công cụ giống như vốn chủ sở hữu, tức là họ tham gia trực
tiếp vào rủi ro kinh doanh của những công ty mà họ tài trợ. Vì thế có thể nói trong các
loại hình quỹ đầu tư, quỹ đầu tư vốn mạo hiểm là loại hình quỹ đầu tư có rủi ro cao
nhất. Lợi nhuận ngoạn mục, rủi ro đáng kể chính là đặc trưng thú vò nhất của vốn mạo
hiểm.
Cung cấp sự hỗ trợ phi tài chính
Một trong những đặc điểm quan trọng và đặc thù của vốn mạo hiểm là ngoài cung
cấp nguồn vốn, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm còn cung cấp sự trợ giúp đáng kể ở
cấp chiến lược cho đối tượng nhận đầu tư. Đặc biệt, các nhà đầu tư thường có một vò trí
trong hội đồng quản trò của công ty nhận vốn đầu tư. Từ vò trí này, cùng với các kinh
nghiệm thu được từ các công ty khác, những chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm tham gia
vào việc kiểm soát hoạt động kinh doanh, đồng thời tác động thúc đẩy sự phát triển của
các công ty nhận vốn đầu tư. Các công ty quản lý vốn mạo hiểm khác nhau đặt ra trọng
tâm khác nhau về mức độ tham gia. Mức độ tham gia có thể là tối thiểu, thường gắn liền
với một số cổ phần nhỏ, hoặc tham gia vào công việc thường nhật như đóng vai trò Chủ
tòch hội đồng quản trò, thường gắn liền với việc nắm giữ đa số cổ phần.
Là một quỹ đầu tư tư nhân
Vì mức độ rủi ro của quỹ là rất cao, nên vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm huy động
sẽ không phải là từ công chúng mà bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một số
nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước. Đó là các cá nhân, thể nhân, các
đònh chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Các nhà đầu tư thường đầu tư lượng vốn
tương đối lớn và đổi lại họ đòi hỏi các yêu cầu về quản lý quỹ rất cao. Do đó quỹ đầu tư
vốn mạo hiểm là một quỹ đầu tư tư nhân.
Chủ yếu là đầu tư gián tiếp
Hình thức đầu tư chủ yếu ban đầu của quỹ là đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên từ đầu
những năm 80, hình thức đầu tư đã thay đổi. Việc tiến hành đầu tư được thực hiện thông
qua nhà quản lý đầu tư tư nhân chuyên nghiệp. Xu hướng này ngày càng phổ biến, thể
hiện tính chuyên môn hóa cao trong lónh vực đầu tư vốn mạo hiểm và dần hình thành
ngành công nghiệp đầu tư vốn mạo hiểm.
Tiền mạo hiểm không phải là tiền dài hạn suốt đời
Vốn mạo hiểm đầu tư vào cân đối tài sản và cơ sở hạ tầng của một doanh nghiệp
cho đến khi doanh nghiệp đạt được qui mô và độ tín nhiệm đủ để có thể đem bán cho một
tập đoàn hay để cho thò trường chứng khoán có thể nhập cuộc và cấp vốn thanh khoản.
Về bản chất, quỹ đầu tư mạo hiểm góp một phần vốn vào ý tưởng của một nhà kinh
doanh, nuôi dưỡng nó trong một thời gian ngắn rồi rút lui với sự giúp đỡ của một ngân
hàng đầu tư.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét