Lời mở đầu
Đô la hoá là hiện tượng sử dụng ngoại tệ rộng rãi trong một quốc gia thay thế một hay
nhiều chức năng của nội tệ. Đây là hiện tượng phổ biến ở các nước phát triển và các nền kinh
tế đang chuyển đổi, trong đó có Việt Nam.
Khi Việt Nam hội nhập với kinh tế quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập WTO, tình trạng
nền kinh tế bị đô la hoá ngày càng được biểu hiện rõ nét. Đô la hoá có thể thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nói chung và sự phát triển của hệ thống ngân hàng nói riêng, đồng thời cũng
gây ra rủi ro về thanh khoản và khả năng chi trả, có thể gây phá sản cho toàn bộ hệ thống
ngân hàng. Như vậy, khi nền kinh tế bị “đô la hoá”, hiện tượng này là tốt hay không tốt? Có
nên loại bỏ hoàn toàn khỏi nền kinh tế hay không?
Từ những nhận định trên đây, nhóm 6 – lớp Tài chính doanh nghiệp 51A xin thảo luận
về vấn đề đô la hoá ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp để hạn chế tình trạng trên. Do
khuôn khổ kiến thức, thời gian tìm hiểu có hạn, chúng tôi chỉ xin đưa ra những cái nhìn chủ
quan để cùng thảo luận và xem xét vấn đề trên cho nên không thể tránh khỏi những sai sót.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của thầy, cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
Mục lục 2
VẤN ĐỀ ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tổng quan về đô la hóa
1.1. Khái niệm:
Theo Quyết định 98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án
nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh
tế ban hành ngày 04/07/2007 có đưa ra khái niệm: Khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong
một quốc gia để thay thế một hay nhiều chức năng của nội tệ thì nền kinh tế đó gọi là bị đô la
hóa. Ở nước ta, "đô la hóa" được nhận thức là việc sử dụng USD trong giao dịch thương mại
và dịch vụ song song với VND.
Trên thế giới, "đô la hóa" có khái niệm rộng hơn: khi dân cư một nước sử dụng rộng
rãi ngoại tệ song song với đồng nội tệ hoặc thay thế đồng nội tệ.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng “đô la hoá”
cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ (FCD) chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ
mở rộng (M2) bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn
và tiền gửi ngoại tệ.
Trong thời đại ngày nay, đồng tiền của một số quốc gia phát triển được sử dụng rộng
rãi trong thanh toán và trao đổi, đóng vai trò là tiền tệ thế giới, đặc biệt là đồng USD của
Mỹ. Do đó hiện tượng ngoại tệ hóa thường được hiểu đồng nghĩa với “Đô la hóa”.
1.2. Phân loại:
a. Căn cứ vào hình thức: Đô la hóa được thể hiện dưới 3 hình thức sau:
− Đô la hóa thay thế tài sản: Thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện
thanh toán (FCD/M2). Theo IMF, khi tỷ lệ này trên 30% thì nền kinh tế đó được cho
là có tình trạng đô la hóa cao, tạo ra các lệch lạc trong điều hành tài chính tiền tệ vĩ
mô.
− Đô la hóa phương tiện thanh toán: Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. Các
giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá nhất là đối với
những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam.
− Đô la hóa định giá, niêm yết giá: Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng ngoại tệ.
b. Căn cứ vào phạm vi: Tùy theo các trạng thái của việc sử dụng ngoại tệ, người ta chia
đô la hóa làm 3 loại:
− Đô la hóa chính thức, còn được gọi là đô la hóa hoàn toàn (official dollarization) khi
một nước sử dụng ngoại tệ theo quy chế độc quyền, hay giữ vai trò khống chế ở nước
đó.
− Đô la hóa bán chính thức, còn được gọi là đô la hóa từng phần (semi-official
dollarization) khi ở một nước tồn tại song song đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Khác với các nước "đô la hóa" chính thức, ngân hàng trung ương những nước đó
phát hành đồng nội tệ và điều hành chính sách tiền tệ của đất nước. Trên thế giới, có
khoảng 12 nước như Bahamas, Haiti, Liberia áp dụng đô la hóa bán chính thức.
− Đô la hóa không chính thức (unofficial dollarization) khi ở một nước người dân giao
dịch hàng hóa và dịch vụ bằng ngoại tệ, giữ ngoại tệ làm tài sản, mặc dù ngoại tệ
không được coi là đồng tiền lưu chuyển hợp pháp trên thị trường trong nước. Quỹ
Tiền tệ thế giới (IMF) xếp Việt Nam vào nhóm nước đô la hóa không chính thức.
1.3. Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa
Đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước chậm
phát triển bởi những nguyên nhân chung sau:
− Chính sách điều hành nền kinh tế quốc gia không hiệu quả
• Nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao do việc điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa
không hiệu quả làm đồng nội tệ bị mất giá, người dân mất niềm tin vào đồng nội
tệ, từ đó họ phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ
có uy tín. Với chức năng ban đầu làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng
ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán
hay làm thước đo giá trị.
• Do trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, cơ chế quản lý ngoại hối, khả
năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố này càng thấp thì quốc gia
đó sẽ có mức độ đô la hóa càng cao.
• Quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế ngầm thiếu chặt chẽ. Trong thực
tế, hoạt động buôn lậu làm nảy sinh cầu rất lớn về ngoại tệ, hay hành vi tham
nhũng có yếu tố nước ngoài, hoạt động rửa tiền dưới dạng đầu tư gián tiếp, trực
tiếp hoặc dưới dạng kiều hối tạo ra một lượng ngoại tệ lớn chảy vào Việt Nam
khiến gia tăng lượng ngoại tệ trong nền kinh tế. Mặt khác, các hoạt động này lại
chưa được kiểm soát chặt chẽ và có xu hướng ngày càng gia tăng làm lượng ngoại
tệ thực tế tăng lên và vấn đề đô la hóa trở nên trầm trọng hơn.
• Trong các giao dịch thương mại quốc tế, việc thanh toán của nước ngoài đối với
Việt Nam vẫn thực hiện bằng đồng ngoại tệ và chính trong các báo cáo, thống kê
của nhà nước về các giao dịch này vẫn sử dụng ngoại tệ làm đơn vị tính giá trị
thay vì quy đổi ra đồng nội tệ làm cho đồng nội tệ trở nên kém được coi trọng hơn
và càng khiến người dân kém tin tưởng vào việc sử dụng nội tệ.
− Yếu tố tâm lý:
• Nhiều người có tâm lý lo sợ VND mất giá (do ảnh hưởng của tỷ lệ lạm phát đã
phân tích ở trên) nên họ lựa chọn đô la Mỹ làm phương tiện dự trữ.
• Sử dụng USD tiện lợi hơn trong các giao dịch có giá trị lớn như mua bán nhà, đất
đai, xe… bởi vì đồng tiền Việt Nam hiện nay mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ
500.000 đồng được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, trong khi tờ 100 USD lại
tương ứng với hơn 2 triệu đồng.
• Tâm lý “sính ngoại” trong việc sử dụng đồng tiền thanh toán.
− Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế nảy sinh nhu cầu về sử dụng đồng ngoại tệ mạnh như
USD trong các giao dịch thương mại.
• Đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số
quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm
vai trò của "tiền tệ thế giới" (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới
bằng đô la Mỹ). Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, được tự do chuyển
đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng,
thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
• Trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh
tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác
kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên
trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để
thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Ví dụ: xác định vốn đầu tư nước ngoài,
tính toán mức chi phí dịch vụ và giá cả hàng hoá, xác định mức GDP theo đầu
người, giá tiền lương tối thiểu cùng các chỉ tiêu kinh tế đối ngoại vĩ mô khác mà
nếu chỉ dùng bản tệ thì rất khó khăn khi giao lưu, hợp tác quốc tế, cho nên phải
dùng đô la Mỹ trong vai trò tiền tệ thế giới để định giá so sánh Đô la hoá ở đây,
về hình thức như là sự xâm nhập tiền tệ của Mỹ vào các nước, nhưng về bản chất
kinh tế, đó là kết quả của quá trình giao lưu, hội nhập kinh tế giữa các nước.
1.4. Tác động của đô la hóa
a. Tác động tích cực
Đô la hoá tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế:
o Giảm áp lực khi xảy ra lạm phát: Khi nền kinh tế của một quốc gia rơi vào tình
trạng lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định,
nếu trong hệ thống ngân hàng có một lượng lớn đô la Mỹ thì sẽ có một công cụ tự
bảo vệ, chống lại lạm phát và là phương tiện thanh toán trên thị trường phi chính
thức. Điều này được lí giải rất rõ ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử
dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp
làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài
hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng
phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không
thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về
tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang
tính tích cực hơn.
Ta có thể nhận thấy tác động tích cực này tại một số nước tiến hành đô la hoá
toàn phần như: Panama, Ecuador, Ei Salvador…
Từ 1904, sau khi tách khỏi Colombia, Panama đã dùng đồng đô la, việc này đã
có ảnh hưởng rất tốt đến nền kinh tế của Panama như trong suốt những năm 1990
lạm phát hầu như không vượt quá 1% một năm.
Đối với Ecuador, từ năm 2000, nước này đã thực hiện đô la hoá chính thức,
đây là phương cách cuối cùng khi nước này cố vượt qua một cuộc khủng hoảng
kinh tế trầm trọng, với một hệ thống ngân hàng suy sụp, đồng nội tệ (đồng sucre)
mất giá, và sự chống đối của người dân bản xứ. Trước khi đổi hệ thống tiền sang
đôla, Ecuador đã thử tiến hành nhiều biện pháp hối đoái khác nhau như tỉ giá cố
định, chính sách ghìm tỉ giá. Tất cả các biện pháp này đều không có hiệu quả và
đến nay quyết định đô la hoá vẫn được coi là hợp lý đối với Ecuador.
Hiện tượng đô la hóa dẫn đến tỷ giá gần như cố định và do đó giá cả sẽ ổn định
hơn. Nguồn cung USD đầy đủ trong nền kinh tế cũng đã góp phần ổn định tỷ giá
đồng bạc Việt Nam. Tuy nhiên trong một số trường hợp nó còn đi quá đà trong
việc nâng cao tỷ giá của đồng bạc và cũng là một trong những nguyên nhân làm
giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam.
o Giảm áp lực đối với nhu cầu về vốn của DN: tại Việt Nam, đồng USD đã trở thành
một thành phần không thể thiếu trong khối tiền tệ quốc gia. Chính sách tiền tệ thắt
chặt của chúng ta trong thời gian dài nhằm đối phó với nguy cơ lạm phát đã không
tác động quá tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chính là nhờ sự hiện diện của
đồng đô la. Khi tiến hành chính sách tiền tệ thắt chặt thì lãi suất tăng làm giảm khả
năng vay vốn của doanh nghiệp đối với đồng nội tệ, để có vốn kinh doanh, DN tìm
đến đồng ngoại tệ. Nhờ nó, các hoạt động kinh tế trong DN, đặc biệt là khu vực tư
vẫn tiếp tục tăng trưởng.
Đô la hoá giúp tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập
quốc tế:
Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng
sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ
nước ngoài. Đồng thời, nguồn ngoại tệ di chuyển trong nội bộ hệ thống ngân hàng
trong nước tạo điều kiện thuân lợi cho ngân hàng trung ương thực hiện chức năng
kiểm soát của mình một cách dễ dàng.
Khi huy động được một lượng lớn tiền gửi ngoại tệ, các ngân hàng sẽ có điều
kiện cho vay bằng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DN xuất nhập
khẩu, mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường
trong nước với thị trường quốc tế. Điều này cũng khá quan trọng đối với Việt Nam
khi mà hệ thống ngân hàng của chúng ta hầu hết chỉ có các hoạt động tín dụng với
các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, hơn nữa VND không phải là một đồng tiền có vị thế cao so với các đồng ngoại
tệ mạnh khác. Với lượng USD sẵn có trong hệ thống, các ngân hàng có thể dễ dàng
và nhanh chóng thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế, tăng khả năng thu hút,
mở rộng được phạm vi hoạt động của mình ra thị trường tài chính quốc tế.
Hạ thấp chi phí giao dịch:
Điều này đặc biệt thấy rõ ở những nước đô la hoá chính thức, Xét với một
nước đô la hóa không chính thức như Việt Nam, khi một doanh nghiệp xuất nhập
khẩu của Việt Nam muốn thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu ở nước ngoài bằng
USD, doanh nghiệp nhập khẩu cần đến ngân hàng chuyển đổi nội tệ VND của mình
ra ngoại tệ để thanh toán cho đối tác. Hiển nhiên, doanh nghiệp phải bán nội tệ với tỉ
giá D
m
VND/USD. Nhưng khi doanh nghiệp này nhận được tiền thanh toán bằng
USD từ một đối tác nhập khầu khác ở nước ngoài, nếu có nhu cầu dùng đồng nội tệ,
anh ta sẽ phải tới ngân hàng và mua nội tệ với tỉ giá D
b
VND/USD. Trong khi D
m
bao
giờ cũng nhỏ hơn D
b
nên doanh nghiệp sẽ phải chịu một khoản chi phí chênh lệch
nhất định khi chuyển đổi giữa các đồng tiền.
Xét đối với một nước đô la hóa chính thức thì không còn những giao dịch
chuyển đổi tiền tệ như trên nữa, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán
khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng
cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì
thế giảm được chi phí kinh doanh.
Thúc đẩy thương mại và đầu tư:
Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh
toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư
quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được hưởng chênh lệch lãi suất đối với vay
nợ nước ngoài thấp hơn, thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
Đối với Việt Nam, cán cân thanh toán quốc tế thường sử dụng đồng USD làm
đơn vị tính giá trị. Do đó, rủi ro tỷ giá sẽ dẫn tới rủi ro cho cán cân thanh toán, việc
mua bán ngoại tệ sẽ chịu sự chi phối, kiểm soát của Ngân hàng Trung ương. Nhưng
đối với các quốc gia thực hiện chính sách đô la hoá chính thức thì các rủi ro cũng như
sự gò bó trên sẽ được loại bỏ. Bởi lẽ, mọi giao dịch trong nền kinh tế kể cả trong nội
địa hay giao thương quốc tế đều sử dụng đồng đô la làm phương tiện thanh toán, trao
đổi và cất trữ. Từ đó sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước hướng ra thị trường quốc
tế cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước, bởi họ có
tâm lí yên tâm hơn khi sử dụng đồng tiền mạnh, có vị thế trên thế giới Đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam tăng làm tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp
Việt Nam giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng. Đây
là tác động vô cùng quan trọng đối với Việt Nam, nhất là trong xu thế chung toàn cầu
hoá và bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức:
Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để
chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường
chính thức (thị trường hợp pháp). Khi đó thị trường chính thức sẽ mở rộng hoạt động
hơn so với các hoạt động mà trước kia phải thực hiện trên thị trường phi chính thức.
Điều này giúp cho thị trường hoạt động hiệu quả, nâng cao tính minh bạch và công
bằng của thị trường.
Ở Việt Nam, kinh doanh ngoại hối mới chỉ thực hiện trên thị trường phi chính
thức (“chợ đen”). Nếu việc đô la hoá gia tăng sẽ giúp thị trường chợ đen tiến sát hơn
cùng thị trường chính thức, giảm bớt các hoạt động kinh tế ngầm, bất hợp pháp, giúp
nền kinh tế có được sự phát triển ổn định, hiệu quả bền vững. Chẳng hạn. hoạt động
kinh doanh ngoại tệ kiếm lời nhờ chênh lệch tỉ giá sẽ không còn nữa, giảm thiều
được nguy cơ đầu cơ, tích trữ, gây nên nhiều cú sốc ảo cho giá cả thị trường.
Ngoài ra, có thể thấy các tác động tích cực khác mà đô la hoá đem lại cho nền kinh
tế, đặc biệt là sự giao lưu, hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới. Hiện tượng
đô-la hoá đồng nghĩa với việc USD được sử dụng rộng rãi, chấp nhận tại nhiều nơi…đó
là một trong những điểm hấp dẫn du khách nước ngoài tới Việt Nam nhiều hơn. Họ có
thể đem theo đồng USD tới Việt Nam để chi tiêu mà không phải chuyển đổi tiền tệ. Có
thể kể tới việc thu hút nhiều hơn nguồn kiều hối chảy về Việt Nam. Hay có thể làm hài
lòng các đối tác trong các hợp đồng kinh doanh bởi sự chấp nhận thanh toán bằng ngoại
tệ…tạo sự hấp dẫn hơn cho các doanh nghiệp Việt. Tất cả đều góp phần thúc đẩy hoạt
động giao thương, đầu tư trong nền kinh tế.
b. Tác động tiêu cực
Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, làm giảm hiệu quả điều
hành của chính sách tiền tệ:
Đô la hóa gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh
toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền
trong lưu thông kém chính xác và kịp thời.
Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn
định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể
làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một
khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ thì dễ dẫn đến hoạt động đầu cơ tỷ giá. Những
thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung
tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm
cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho
vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá
cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
Số lượng USD được gửi trong hệ thống ngân hàng hiện nay ngày càng tăng.
Tuy nhiên ngoài số tiền dự trữ mà các doanh nghiệp, cá nhân gửi tại các ngân hàng
thì vẫn còn một lượng tiền rất lớn tồn tại ngoài ngân hàng. Có thể kể đến một lượng
lớn kiều hối gửi về không thông qua dịch vụ chuyển tiền của ngân hàng. Như vậy
việc xác định tỷ lệ đô la hóa là rất khó. Chính phủ muốn giảm lượng USD lưu thông
nhưng những người sở hữu USD lại không muốn giảm thì chính phủ cũng không thể
kiểm soát nổi. Do đó việc đưa ra các chính sách tiền tệ trở nên kém chính xác.
Một câu hỏi đặt ra là: Các ngân hàng sẽ làm gì với những đồng USD đang
được gửi tại ngân hàng mình. Đó là họ sẽ mang ra nước ngoài gửi để hưởng lãi suất,
như vậy số USD này sẽ không được đầu tư trong nước. Nhưng đến thời gian lãi suất
tiền gửi USD ở nước ngoài giảm thì các ngân hàng này lại rút về và cho vay trong
nước. Và các doanh nghiệp lại là khách hàng quen thuộc trong các giao dịch bằng
USD. Tuy nhiên nếu VND giảm giá thì họ sẽ có khả năng không thanh toán được
khoản vay từ ngân hàng. Bởi doanh thu mà họ thu được là bằng VND mà lại đi trả nợ
bằng USD => gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc hoàn trả nợ và điều này
sẽ ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, khi kì vọng USD tăng giá ngày càng cao thì việc găm giữ USD chờ
tăng giá càng trở nên phổ biến. Các doanh nghiệp cần ngoại tệ đến ngân hàng cũng bị
từ chối, ra chợ đen thì giá lại rất cao, đứng trước tình trạng khan hiếm USD, chính
phủ buộc phải bơm USD để giữ ổn định, đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động
điều tiết kinh tế nhưng số lượng thì khó có thể tính toán được.
Đô la hóa làm cho VND nhạy cảm hơn với những thay đổi từ bên ngoài, do đó
những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu thông qua việc điều
chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
Đô la hóa tác động đến việc hoạch đinh và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hóa
làm cầu tiền trong nước không ổn định do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội
tệ sang USD, làm cho cầu USD tăng, gây sức ép lên tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền,
nghĩa là các giá hàng hóa ở các quốc gia phá giá đồng tiền trở nên rẻ hơn so với ở các
quốc gia bị đô la hoá, do vậy mà các nước đô la hóa sẽ có xu hướng nhập khẩu nhiều
hơn và không còn khả năng bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua
việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Ngân hàng không có sức đề kháng đối với sự biến
động của tỷ giá, rất dễ dẫn đến sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng.
Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người
cho vay cuối cùng của các ngân hàng
Bản thân NHTW không có khả năng phát hành đồng ngoại tệ, do đó khi hệ
thống ngân hàng gặp bất ổn về khả năng thanh toán ngoại tệ trong trường hợp người
gửi ồ ạt rút tiền gửi ngoại tệ, mặt khác, dự trữ ngoại tệ của NHTW không đủ để đáp
ứng nhu cầu vay của NHTM trong khi cũng không thể in đồng đô la nên NHTW
không thể tiếp tục cho vay đối với NHTM cũng đồng nghĩa với việc mất đi chức năng
là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ:
Mức độ phụ thuộc tùy thuộc vào tỷ lệ đô la hóa, đô la hóa càng nhiều thì phụ
thuộc càng nặng nề. Đối với các nước đô la hóa chính thức thì chính sách tiền tệ và
chính sách lãi suất của đồng tiền sẽ do Mỹ quyết định. Đối với các nước khác trong đó
có Việt Nam thì các biến động của nền kinh tế Mỹ như thay đổi lãi suất, tỷ lệ thất
nghiệp, các quyết định của FED… đều ảnh hưởng đến thị trường vốn và thị trường
tiền tệ trong nước. Do đó, chính phủ cũng phải căn cứ vào chính sách của Mỹ để ra
chính sách trong nước cho phù hợp.
Đô-la hoá tăng nguy cơ gây ra một cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng:
Hệ thống ngân hàng khi đó sẽ gặp rủi ro cao về thanh khoản. Rủi ro này phát
sinh bởi sự khác biệt về đồng tiền huy động và cho vay.
Với một lượng ngoại tệ lớn huy động được từ tiền gửi bằng ngoại tệ trong dân
cư, các ngân hàng sẽ cho vay một phần đối với các đối tượng trong nước. Khi đó, rủi
ro tiền tệ đã được chuyển sang cho người đi vay không có biện pháp phòng chống rủi
ro này, đồng thời giữ lại rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Khi bản tệ phá giá, các con nợ
của ngân hàng dễ mất khả năng thanh toán khi mà các khoản thu của họ phần lớn bằng
nội tệ, trong khi họ đi vay bằng đồng ngoại tệ, những khoản vay này “phình to” nếu
tính theo đồng nội tệ đang bị mất giá.
Đối với người gửi ngoại tệ vào ngân hàng, nếu họ có tâm lí e ngại về những
khoản nợ xấu như trên thì sẽ có hiện tượng ồ ạt rút tiền khỏi ngân hàng . Lúc này các
ngân hàng phải có lượng tài sản bằng ngoại tệ đủ lớn để đáp ứng nhu cầu dòng ngoại
tệ rút ra ồ ạt, hoặc phải đi vay ngoại tệ từ NHTW và các ngân hàng khác. Nhưng nếu
hiện tượng này mang tính hệ thống thì các nguồn huy động bù đắp thanh khoản này sẽ
rất có hạn. kết cục là sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng. Hệ thông ngân hàng sẽ sụp
đổ nếu như không có biện pháp dự trữ USD thích hợp. Như vậy áp lực lại đặt lên ngân
hàng trung ương bởi nó không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
2. Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay
2.1. Đô la hóa thay thế tài sản
Việc đánh giá mức độ đô la hóa thay thế tài sản được biểu hiện qua chỉ số
FCD/M2.
a. Giai đoạn trước đổi mới (trước 1988)
Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc
quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, kinh tế đối ngoại kém
phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm
theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các
tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo
người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Về cuối giai đoạn xuất
hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh, lạm phát tới 3 con số và
liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để
tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ ĐLH là
không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ.
b. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực
(1988 - 1997)
Biểu đồ tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2)
Nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đôla Mỹ trong giao dịch, buôn bán…
bắt đầu được chú ý từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng
đồng đô la. Năm 1991, tỷ lệ FCD/M2 lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ
hợp pháp và bất hợp pháp tương đối nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng (kể cả
đối với các giao dịch nhỏ) trong dân cư khá phổ biến.
Nguyên nhân do ảnh hưởng của lạm phát phi mã giai đoạn trước (đến năm 1991
lạm phát vẫn còn tới 67,5 %). Người dân ưa thích sử dụng ngoại tệ còn do lợi ích thực
tế của việc sử dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ
thống thanh toán lại kém phát triển.
Đến giai đoạn 1993 -1996, khi Việt Nam đang từng bước chuyển sang xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước dần xoá bỏ chế
độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế
phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế tăng trưởng cao và khá ổn định,
trung bình gần 8%/năm, lạm phát được kiểm soát ở mức trên dưới 10%, kinh tế đối
ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập khẩu, đầu tư và vay nợ nước ngoài. Cùng với
thắng lợi trong việc kiềm chế lạm phát, sự phát triển của hệ thống ngân hàng hai cấp
đã khôi phục dần vị thế của VND. Hình thành Trung tâm giao dịch ngoại tệ và sau đó
là Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển, VND
được hỗ trợ bởi các ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn làm cho việc sử dụng
thuận tiện hơn. Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát đã được kiềm chế
nên mức lãi suất cao làm cho VND trở nên khá hấp dẫn, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có
lợi hơn. Và NHTW cũng cố gắng giảm mức độ đô la hoá bằng việc giảm lãi suất tiền
gửi USD, tăng lãi suất tiền gửi VND nên mức độ đô la hóa giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2
năm 1997 xấp xỉ 20%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng
ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy
nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa
kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất tiện khi sử dụng
VND vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, các hoạt động
ngoại hối trái phép tồn tại chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Nguyên
nhân là thiếu chế tài, thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý.
c. Giai đoạn từ khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực đến nay :
− Từ 1998 đến 2007 :
Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, mức tăng GDP của Việt Nam giảm
mạnh, trung bình chỉ còn 6%/năm. Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp
khoảng trên 20%, tỷ lệ FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên và đến năm 2001 là xấp xỉ 30%.
Nguyên nhân :
+ Trong suốt một thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định, lãi suất đô
la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh điểm giữa năm 2000 lên tới
6,5%/năm. Vì thế các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô
la lên tương ứng, người dân tăng cường gửi ngoại tệ.
+ Tâm lý đô la hóa trong giai đoạn này cũng một phần do tác động của khủng
hoảng và kỳ vọng của thị trường vào sự phá giá của VND.
Cuối năm 2000, nhiều ngân hàng thương mại đồng loạt tăng lãi suất huy động
VND và hạ lãi suất huy động USD. Động thái này giúp đưa tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ
xuống mức 21.3% vào cuối năm 2003. Tuy nhiên, đến năm 2004, khi lạm phát 9.5%
làm lo ngại về sự mất giá của tiền đồng càng gia tăng và lãi suất USD trên thế giới
tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm càng làm người tiết
kiệm muốn chuyển đổi tiền đồng sang đô la để gửi ngân hàng, vì vậy tỷ lệ FCD/M2
đang có biểu hiện gia tăng, đạt hơn 23%. Những năm tiếp theo, tỷ lệ này có xu hướng
giảm chậm nhưng vẫn ở mức cao, khoảng 20 – 25%. Năm 2007, tỷ lệ này dưới 20%.
− Giai đoạn từ 2008- nay
2008 khủng hoảng kinh tế toàn thế giới tình trạng lạm phát tăng cao (29,8%) tâm
lý lo ngại đồng nội tệ mất giá tăng lên làm tình trạng đôla hóa ở nước ta có xu hướng gia
tăng trở lại năm 2008 tỷ này là xấp xỉ 20% và không có sự thay đổi nhiều cho đến hết
quý I/2010.
Lượng tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng và cơ sở tiền tệ của
Việt Nam thời gian qua
Theo biểu đồ, FCD tăng rất mạnh và liên tục trong 3 năm 2008 – 2010. Cuối
năm 2007 là 221.669 nghìn tỷ đồng, đến hết quý 1/2010 đã là 350.229 nghìn tỷ. Điều
này cho thấy mức độ đô la hóa không những không giảm mà còn có xu hướng gia
tăng. Một mặt là do tâm lý nắm giữ ngoại tệ của người dân vẫn còn phổ biến, mặt
khác do tỷ lệ lãi suất tiền gửi bằng USD ở Việt Nam rất cao so với thế giới (dao động
ở mức 4-5%, trong khi đó, tỷ lệ trung bình trên thị trường thế giới chỉ là 0,3-0,4%, tức
là cao gấp 10 lần) nên thu hút được một lượng tiền lớn từ nước ngoài gửi về. Điều này
cho thấy khả năng huy động nguốn vốn ngoại tệ nhàn rỗi trong dân là khá cao, sẽ kích
thích đầu tư cho phát triển kinh tế. Tuy vậy, nhìn từ góc độ đô la hóa, con số này cũng
rất đáng quan tâm.
Từ tháng 11/2009 đến tháng 2/2011, chỉ trong vòng 14 tháng, NHNN đã ra
quyết định 4 lần điều chỉnh tỷ giá, trong đó có những đợt điều chỉnh được coi là đợt
phá giá tiền tệ và đồng nội tệ hiện nay đã giảm giá khoảng 20% so với thời điểm trước
26/11/2009, cụ thể:
• 26/11/2009 tỷ giá điều chỉnh tăng 5,4% từ 17.034 đồng lên 17.961 đồng
• 10/2/2010 tỷ giá điều chỉnh tăng 3,2% từ 17.961 đồng lên 18.544 đồng
• 18/08/2010 tỷ giá điều chỉnh tăng 2,09% từ 18.544 đồng lên 18.932 đồng
• 11/02/2011 tỷ giá điều chỉnh tăng 9,3% từ 18.932 đồng lên 20.963 đồng
Đợt điều chỉnh ngày 11/2/2011 được lãnh đạo NHNN đánh giá là một trong
những biện pháp nhằm thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 9/1/2011 của Chính
phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế- xã hội. Việc điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 20.693 VND/USD
và thu hẹp biên độ giao dịch từ +3% xuống +1%, đã phản ánh sát hơn cung cầu trên
thị trường, đảm bảo tăng tính thanh khoản, góp phần kiềm chế nhập siêu và hỗ trợ cho
việc thực thi chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, kể từ khi NHTW tuyên bố phá giá tiền
đồng bằng cách nâng tỷ giá tham chiếu cũ là 18.932 đồng ăn 1 đô la lên mức tham
chiếu mới là 20.693 đồng ăn một đô la thì tỷ giá trên thị trường tự do đã ngay lập tức
được điều chỉnh từ mức khoảng 21.000 đồng/1USD (vào ngày 11 tháng 2) lên mức
khoảng 22.000 đồng/1USD (vào ngày 17 tháng 2). Đến ngày 27/5/2011, tỷ giá giảm
mạnh nhất từ 11/02 xuống còn 20.653 đồng.
Đến 11/10/2011 tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng lại tăng lên 20.668
đồng, các ngân hàng niêm yết giá trần 20.875 đồng. Trên thị trường tự do lại đang
diễn biến theo chiều ngược lại với giá mua USD đang có xu hướng giảm dần, tại các
cửa hàng trên phố Hà Trung – Hà Nội, giá USD được công bố ở mức 21.220 - 21.280
đồng/USD, giảm 70 đồng so với chiều 10/10. Việc phá giá tiền tệ nhằm giảm thâm
hụt cán cân thương mại và tình trạng lạm phát tăng cao nhưng mặt trái của nó được
thể hiện nay trên thị trường tự do, là bằng chứng giúp thị trường khẳng định rõ hơn xu
thế đi xuống tất yếu của tiền đồng, người dân càng có tâm lý nắm giữ đô la làm tài sản
với kì vọng tiếp tục có những đợt phá giá nội tệ.
Nguyên nhân:
+ Tốc độ tăng cung ứng tiền khá cao, mức dư nợ tín dụng tăng nhiều hơn mức
tăng huy động vốn (năm 2009 tăng 37,73% trong khi đó mức huy động vốn chỉ tăng
28,7%).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét