Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 5
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH VÀ
TÀI NGUYÊN DU LỊCH
1.1 Những vấn đề chung
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản về du lịch và tài nguyên du lịch:
1.1.1.1 Khái niệm về du lịch
Trong đời sống của con ngƣời hiện đại ngày nay, du lịch đã trở thành
một hiện tƣợng kinh tế - xã hội phổ biến, nó đã nhanh chóng trở thành nghành
kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới.
Du lịch từ lâu đã trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu. Nhiều nƣớc
đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cƣ là một chỉ tiêu để đánh giá chất lƣợng
cuộc sống. Và thuật ngữ du lịch đã trở nên rất thông dụng.
Thuật ngữ “Du lịch” trong ngôn ngữ nhiều nƣớc bắt nguồn từ tiếng Hi
Lạp với nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này đƣợc La Tinh hoá thành tornus
và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), và tourism (tiếng Anh). (Robert
Lanquar. Kinh tế du lịch.Nxb Thế giới. Hà Nội 1993. Ngƣời dịch: Phạm Ngọc
Uyển và Bùi Ngọc Chƣởng).
Ở Việt Nam, thuật ngữ Du lịch đƣợc dịch thông qua tiếng Hán. Du có
nghĩa là chơi, còn lịch có nghĩa là từng trải.
Tuy nhiên, ngƣời Trung Quốc gọi tourism là du lãm với nghĩa là đi
chơi để nâng cao nhận thức.
Ngày nay, trên thế giới có rất nhiều các khái niệm khác nhau về du lịch.
Nhƣ một chuyên gia nghiên cứu về du lịch đã nhận định: “đối với du lịch, có
bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. Đúng vậy, các
chuyên gia có các cách tiếp cận khác nhau, cách hiểu khác nhau dƣới các góc
độ nghiên cứu khác nhau về du lịch dẫn đến các cách định nghĩa khác nhau về
du lịch.
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 6
Năm 1963, với mục đích quốc tế hoá, tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về
du lịch họp ở Roma, các chuyên gia đã đƣa ra định nghĩa về du lịch nhƣ sau:
“Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tƣợng và các hoạt động kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lƣu trú của các nhân hay tập thể ở bên ngoài
nơi ở thƣờng xuyên của họ hay ngoài nƣớc họ với mục đích hoà bình. Nơi họ
đến lƣu trú không phải là nơi làm việc của họ”.
Theo Guer Freuler trong cuốn nhập môn khoa học du lịch: “Du lịch là
quá trình hoạt động của con ngƣời rời khỏi quê hƣơng đến một nơi khác với
mục đích chủ yếu là đƣợc thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc
sắc, độc đáo, khác lạ với quê hƣơng, không nhằm mục đích sinh lời đƣợc tính
bằng đồng tiền”.
Theo tác giả Nguyễn Cao Thƣờng và Tô Đăng Hải trong giáo trình
Thống kê du lịch: “Du lịch là một nghành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ
phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các
hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác”.
Theo từ điển Bách Khoa Toàn Thƣ Việt Nam (2005) du lịch chia ra làm
hai nghĩa hiểu sau:
Nghĩa thứ nhất: “du lịch là một dạng nghỉ dƣỡng sức tham quan tích
cực của con ngƣời ngoài nơi cƣ trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật.”
Nghĩa thứ hai: “du lịch là nghành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao
về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn
hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng tình yêu quê hƣơng đất nƣớc; về mặt
kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn; có thể
coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.”
Theo Luật du lịch đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 có giải
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 7
thích “ du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con ngƣời
ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí nghỉ dƣỡng trong một khoảng thời gian nhất định.” (điều 4).
Các định nghĩa trên đều nêu lên đƣợc bản chất của du lịch đó là:
Là hoạt động của con ngƣời rời khỏi nơi cƣ trú thƣờng xuyên của mình
(trừ trƣờng hợp di chuyển đi cƣ trú chính trị, tìm việc làm hoặc xâm lƣợc)
Đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, tham quan, tìm hiểu các danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử.
Không mang mục đích kinh tế vì có thể thăm dò để làm kinh tế về sau.
Vậy du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con ngƣời
ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
nghỉ dƣỡng, tìm hiểu giải trí trong một khoảng thời gian nhất định và không
mang mục đích kinh tế.
1.1.1.2 Khái niệm về tài nguyên du lịch
Du lịch là nghành kinh tế có sự định hƣớng tài nguyên rõ rệt. Tài
nguyên du lịch đƣợc coi là mục đích đi du lịch của du khách; là những nguồn
lực quan trong nhất, mang tính quyết định sự phát triển nghành Du lịch. Tài
nguyên du lịch là cơ sở để hình thành, phát triển các hệ thống lãnh thổ du lịch.
Việc nghiên cứu tài nguyên cho mục đích phát triển du lịch đƣợc quan
tâm nhiều từ cuối thế kỉ XIX đến nay, gắn liền với sự phát triển của du lịch
hiện đại.
Tài nguyên du lịch là loại tài nguyên có những đặc điểm giống với
những loại tài nguyên nói chung, song có một số đặc điểm riêng gắn với sự
phát triển của nghành Du lịch. Và cũng có rất nhiều các khái niệm khác nhau
về tài nguyên du lịch.
Theo Pirojnik trong cuốn Tài nguyên du lịch của Bùi Thị Hải Yến: “Tài
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 8
nguyên du lịch là những tổng thể tự nhiên, văn hoá – lịch sử và những thành
phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thể lực tinh thần
của con ngƣời, khả năng lao động và sức khoẻ của họ, trong cấu trúc nhu cầu
du lịch hiện tại và tƣơng lai, trong khả năng kinh tế kỹ thuật cho phép, chúng
đƣợc dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra những dịch vụ du lịch và nghỉ
ngơi”.
Theo PGS.TS Nguyễn Minh Tuệ cùng tác giả trong cuốn Địa lý du
lịch: “tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các
thành phần của chúng góp phần khôi phục phát triển thể lực và trí lực của con
ngƣời, khả năng lao động và sức khoẻ của họ, những tài nguyên này đƣợc sử
dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất và dịch vụ du lịch”.
Theo Luật du lịch Việt Nam (Điều 4, chƣơng I, Luật du lịch Việt Nam,
2005): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích
lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con ngƣời và giá trị nhân
văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản hình
thành khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.
Các khái niệm trên tuy có cách thể hiện khác nhau về tài nguyên du
lịch, song đều có điểm chung đó là:
Các khái niệm này đều cho rằng tài nguyên du lịch là tiền đề để phát
triển du lịch. Tài nguyên du lịch càng phong phú đặc sắc, có mức độ tâp trung
cao thì càng có sức hấp dẫn đối với du khách và hiệu quả kinh doanh du lịch
cao.
Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử, việc khai thác phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học, chính trị nên ngày càng đƣợc mở
rộng. Do vậy, tài nguyên du lịch bao gồm cả tài nguyên đã, đang khai thác và
tài nguyên du lịch chƣa đƣợc khai thác.
Vậy, tài nguyên du lịch là những thành phần tự nhiên, những tính chất
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 9
của tự nhiên, truyền thống văn hoá, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian,
cùng các công trình kiến trúc do con ngƣời sáng tạo ra có thể sử dụng vào
mục đích du lịch.
1.1.2 Phân loại tài nguyên du lịch:
Tài nguyên du lịch có thể phân thành hai nhóm:
Tài nguyên du lịch tự nhiên:
Theo khoản 1 (Điều 13, chƣơng II) Luật Du Lịch Việt Nam năm 2005
quy định: “Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa
mạo, khí hậu, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên đang đƣợc khai thác hoặc có
thể đƣợc sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm:
o Địa hình
o Khí hậu
o Nguồn nƣớc
o Sinh vật:
Các thành phần tự nhiên;
Các cảnh quan du lịch tự nhiên;
Các di sản thiên nhiên thế giới.
Các loại tài nguyên du lịch tự nhiên không tồn tại độc lập mà luôn tồn
tại, phát triển trong cùng một không gian lãnh thổ nhất định, có mối quan hệ
qua lại tƣơng hỗ chặt chẽ, theo những quy luật của tự nhiên, nhƣ quy luật luôn
vận động và biến đổi không ngừng, quy luật tuần hoàn của nƣớc,…
Các tài nguyên tự nhiên luôn gắn liền với các điều kiện tự nhiên cũng
nhƣ các điều kiện văn hoá, kinh tế - xã hội và cũng thƣờng đƣợc phân bố gần
các tài nguyên du lịch nhân văn.
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 10
Tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con
ngƣời sáng tạo ra. Tuy nhiên chỉ có những tài nguyên nhân văn có sức hấp
dẫn với du khách và có thể khai thác phục vụ du lịch để tạo ra hiệu quả xã
hội, kinh tế, môi trƣờng mới đƣợc gọi là tài nguyên du lịch nhân văn.
Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm:
Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể:
+ Các di sản văn hoá thế giới
+ Các di tích lịch sử văn hoá thắng cảnh cấp Quốc gia và địa phƣơng:
- Các di tích khảo cổ học
- Các di tích lịch sử
- Các di tích kiến trúc nghệ thuật
- Các danh lam thắng cảnh
+ Các công trình đƣơng đại
+ Vật kỉ niệm và vật cổ.
Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể:
+ Các di sản văn hoá truyền miệng và phi vật thể của nhân loại
+ Các giá trị văn hoá phi vật thể cấp Quốc gia và địa phƣơng:
- Các lễ hội
- Nghề và làng nghề thủ công truyền thống
- Nghệ thuật ẩm thực
- Các đối tƣợng gắn với dân tộc học
- Các đối tƣợng văn hoá thể thao hay những hoạt động có tính sự kiện
- Các giá trị thơ ca, văn học.
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 11
1.1.3 Vai trò của tài nguyên du lịch:
Du lịch là một trong những nghành có định hƣớng tài nguyên rõ rệt.
Tài nguyên du lịch có ảnh hƣởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của nghành du
lịch và chuyên môn hóa của vùng du lịch. Nói cách khác nó quy định đến tính
chất của loại hình du lịch cũng nhƣ sự đa dạng của loại hình du lịch tại một
điểm, một quốc gia. Quy mô hoạt động du lịch của một vùng, một quốc gia
đƣợc xác định trên cơ sở khối lƣợng nguồn tài nguyên du lịch quy định tính
mùa, tính nhịp điệu của dòng khách du lịch. Sức hấp dẫn của vùng du lịch phụ
thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ bản để tạo nên vùng
du lịch. Số lƣợng tài nguyên vốn có, chất lƣợng của chúng và mức độ kết hợp
các loại tài nguyên trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và
phát triển du lịch của một vùng hay một quốc gia. Một lãnh thổ nào đó có
nhiều tài nguyên du lịch các loại có chất lƣợng cao, có sức hấp dẫn khách du
lịch và mức độ kết hợp các loại tài nguyên càng phong phú thì càng có sức
hút lớn đối với du khách.
1.1.4 Chức năng của du lịch
1.1.4.1 Chức năng kinh tế
Xét về phƣơng diện kinh tế, du lịch phát triển sẽ góp phần đẩy mạnh sự
chuyển dịch cơ cấu nghành kinh tế, cơ cấu lao động, cơ cấu về mặt lãnh thổ.
Nhƣ vậy, du lịch đƣợc coi là cơ sở quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, và đây cũng chính là nguồn thu ngoại tệ lớn của nhiều nƣớc.
Du lịch còn là nghành kinh tế tổng hợp, nói cách khác du lịch là một
ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó dựa trên và bao hàm các sản phẩm có chất
lƣợng của nhiều nghành kinh tế khác nhƣ giao thông vận tải, tài chính, ngân
hàng, xây dựng,…Chính vì vậy, du lịch phát triển sẽ thúc đẩy các nghành
kinh tế khác cùng phát triển.
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 12
Du lịch góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao
động cho một địa phƣơng, một vùng, tạo ra thu nhập cho nguồn lao động. Vì
vậy, du lịch có đóng góp quan trọng làm tăng thu nhập quốc dân của một
vùng lãnh thổ, một quốc gia nhất là du lịch quốc tế.
1.1.4.2 Chức năng xã hội
Du lịch góp phần tạo công ăn việc làm cho ngƣời dân, giảm bớt nạn
thất nghiệp, nâng cao mức sống cho ngƣời dân và làm cho đời sống tinh thần
của con ngƣời trở nên phong phú hơn, giảm bớt các tệ nạn xã hội.
Du lịch có vai trò trong việc giữ gìn, bảo vệ, phục hồi sức khỏe và tăng
cƣờng sức sống cho nhân dân trong một chừng mực nào đó, du lịch có tác
dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và tăng khả năng lao động cho con
ngƣời. Các công trình nghiên cứu về sinh học khẳng định rằng nhờ chế độ
nghỉ ngơi và du lịch tối ƣu, bệnh tật của dân cƣ trung bình giảm 30%, bệnh
đƣờng hô hấp giảm 40%, bệnh thần kinh giảm 30%, bệnh đƣờng tiêu hoá
giảm 20%. Một số khu vực điều dƣỡng khẳng định nƣớc khoáng ở vùng đó có
thể chữa đƣợc bệnh lao phổi, các vết loét, u nhọt. Trên thế giới, nhƣng nƣớc
giàu nguồn nƣớc khoáng nổi tiếng cũng là những nƣớc phát triển du lịch chữa
bệnh nhƣ: Hunggari, Italia, Cộng hoà Liên bang Đức…
Thông qua hoạt động du lịch ngƣời dân, khách du lịch đƣợc hiểu thêm
về truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các danh lam thắng cảnh của đất
nƣớc…từ đó góp phần giáo dục tinh thần yêu nƣớc, khơi dậy lòng tự hào dân
tộc trong mỗi ngƣời.
Cũng thông qua du lich, con ngƣời ở những địa phƣơng, những vùng
miền, những quốc gia khác nhau đƣợc giao lƣu, tiếp xúc với nhau, làm cho
ngƣời gần ngƣời hơn, từ đó tăng cƣờng tình đoàn kết dân tộc. Đồng thời, có
sự trao đổi, học hỏi vốn kinh nghiệm lẫn nhau giữa du khách và cộng đồng cƣ
dân địa phƣơng góp phần nâng cao dân trí, cũng nhƣ vốn hiểu biết và kinh
nghiệm sống cho cả ngƣời dân bản địa lẫn khách du lịch.
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 13
Phát triển du lịch cũng góp phần vào việc khôi phục và phát triển
truyền thống văn hoá của dân tộc. Các nhu cầu nâng cao nhận thức văn
hoá trong chuyến đi của du khách đã thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý
đến việc khôi phục và duy trì các di tích, các lễ hội, các làng nghề thủ
công truyền thống,…
1.1.4.3 Chức năng sinh thái
Chức năng sinh thái của du lịch thể hiện trong việc tạo nên môi trƣờng
sống ổn định về mặt sinh thái, du lịch sẽ là nhân tố kích thích việc bảo vệ,
khôi phục và tối ƣu hoá môi trƣờng tự nhiên xung quanh bởi chính môi
trƣờng này ảnh hƣởng trực tiếp đến sức khoẻ và các hoạt động khác của
con ngƣời.
Việc làm quen với các danh thắng và môi trƣờng tự nhiên bao quanh có
ý nghĩa không nhỏ đối với khách du lịch. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết
sâu sắc các tri thức về tự nhiên, hình thành quan niệm, thói quen bảo vệ tự
nhiên, góp phần giáo dục khách du lịch về mặt sinh thái học.
Giữa xã hội và môi trƣờng trong kĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt
chẽ, một mặt xã hội cần đảm bảo sự tối ƣu của du lịch nhƣng mặt khác phải
bảo vệ môi trƣờng tự nhiên khỏi tác động của việc xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ du lịch. Nhƣ vây, du lịch và bảo vệ môi trƣờng sinh thái là những
hoạt động gần gũi và liên quan với nhau.
1.1.4.3 Chức năng chính trị
Du lịch đóng góp vai trò to lớn vào việc củng cố hoà bình, đẩy mạnh
các mối giao lƣu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc.
Thông qua du lịch và hoạt động quảng bá du lịch cũng góp phần giới
thiệu cho các nƣớc trên thế giới về hình ảnh của đất nƣớc mình.
Năm 1967, du lịch đƣợc coi là “giấy thông hành của hoà bình” thông
qua du lịch quốc tế, con ngƣời thể hiện nguyện vọng của mình là đƣợc sống,
lao động trong hoà bình và hữu nghị.
Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại huyện Ba Vì –TP Hà Nội
Nguyễn Thị Thơm – VH 1001 14
1.2 Các nhân tố ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển du lịch
1.2.1 Dân cƣ và lao động:
Dân cƣ và lao động không chỉ là nhân tố quan trọng trong sản xuất, mà
đây còn chính là thành phần chính làm nên sự tồn tại của nghành du lịch. Bên
cạnh việc tham gia vào quá trình lao động, tạo ra của cải vật chất cho xã hội,
dân cƣ còn có nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi giai trí. Cùng với sự phát triển ngày
càng nhanh của xã hội thì áp lực công việc cũng ngày càng tăng. Vì thế, nhu
cầu đi du lịch, giảm stress cũng ngày càng tăng lên. Việc nắm vững số dân,
thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, cấu trúc, sự phân bố và mật độ dân
cƣ có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch.
1.2.2 Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các nghành kinh tế:
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm
xuất hiện nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con
ngƣời thành hiện thực.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, liên ngành. Vì thế, trong nền sản
xuất xã hội nói chung, hoạt động của một số nghành nhƣ công nghiệp, nông
nghiệp có ý nghĩa quan trọng để phát triển du lịch:
Công nghiệp phát triển cao sản xuất ra những vật liệu đa dạng để xây
dựng các công trình du lịch và hàng tiêu dùng cho khách du lịch. Công nghiệp
phát triển dẫn đến ô nhiễm môi trƣờng, gây căng thẳng và ảnh hƣởng đến sức
khoẻ của con ngƣời khiến con ngƣời phải tìm chỗ để nghỉ ngơi và phục hồi
sức khoẻ ngoài nơi sinh sống của mình.
Nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với du lịch, vì nhu cầu đi du lịch
của con ngƣời luôn gắn với nhu cầu ăn uống. Nông nghiệp phát triển sẽ thúc
đẩy du lịch phát triển.
Mạng lƣới giao thông: nhờ mạng lƣới giao thông hoàn thiện mà du lịch
phát triển với tốc độ nhanh, làm giảm thời gian đi lại, tăng thời gian nghỉ ngơi
và du lịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét