Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Những biến động trên thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của nó tới hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam

Đối với nớc ta, vai trò và ý nghĩa của dầu khí nói chung trong đó có dầu mỏ
càng trở nên quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Không chỉ là vấn đề thu nhập kinh tế đơn thuần, trong những năm
qua dầu mỏ đã góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia, làm cân đối hơn cán
cân xuất nhập khẩu thơng mại quốc tế, góp phần tạo nên sự phát triển ổn định
nớc nhà trong những năm đổi mới đất nớc.
Hơn thế nữa, với sự ra đời của dầu mỏ đã giúp chúng ta chuyển sang thế chủ
động trong việc thu hút vốn đầu t trực tiếp, tiếp thu công nghệ hiện đại của nớc
ngoài, phát triển ngành nghề dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm. Đồng thời,
dầu mỏ có thể chủ động đảm bảo cung cấp nhiên liệu cho các ngành kinh tế
quốc dân, cung cấp nhiên liệu cho các ngành công nghiệp khác.
3. Ngành công nghiệp dầu mỏ
Thứ nhất, ngành công nghiệp dầu mỏ là một ngành mang tính tổng hợp và đa
dạng cao. Ngành này cũng đòi hỏi vốn đầu t rất lớn, rủi ro nhiều và lợi nhuận
cao. Thông thờng, khi đầu t vào một lô tìm kiếm thăm dò, các công ty phải bỏ
ra hàng trăm triệu đôla Mỹ. Nếu kết quả tìm kiếm, thăm dò không đạt kết quả
(thờng xác suất xảy ra điều này rất cao), số tiền đầu t coi nh mất trắng. Các sự
cố trong khi khai thác, vận chuyển dầu thờng gây những tổn thất vô cùng lớn.
Sự cố chìm giàn khoan dầu P - 36 ngoài khơi Braxin tháng 3 - 2001 vừa qua đã
gây tổn thất tới 450 triệu đôla Mỹ cho Công ty Petrobras. Vì vậy các công ty
dầu mỏ thờng liên minh để giảm thiểu rủi ro và một khi phát hiện dòng dầu
công nghiệp, thì họ càng khai thác càng nhanh càng tốt để sớm thu hồi vốn đầu
t.
Thứ hai, ngành công nghiệp dầu mỏ cũng là ngành công nghệ cao và là con
đẻ của ngành công nghiệp nặng. Tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực thăm dò,
khoan, khai thác, xây dựng công trình biển có nhiều b ớc nhảy vọt . Có thể nói,
ngành công nghiệp dầu mỏ nói riêng và công nghiệp dầu khí noi chung đang sử
dụng những công nghệ hiện đại nhất trong tất cả các lĩnh vực và đang là ngành
dẫn đầu trong phát triển và ứng dụng các công nghệ ngày càng tiên tiến hơn.
Thứ ba, công nghiệp dầu mỏ là một ngành mang tính quốc tế cao, khác với
than đá trớc đây, việc thăm dò, khai thác, chế biến và phân phối dầu khí đã
nhanh chóng mang tính toàn cầu. Có lẽ, hiện tợng toàn cầu hoá xảy ra sớm nhất
trong ngành này. Trong quá trình phát triển của mình, đặc biệt nhất là trong
thập kỷ vàng, các hoạt động dầu khí chủ yếu đợc tiến hành thông qua các hợp
đồng ký giữa các công ty đa quốc gia với nớc chủ nhà có nguồn tài nguyên dầu.
Có nhiều dạng hợp đồng đã đợc sử dụng, nhng phổ biến và vẫn còn ý nghĩa cho
tới ngày nay là dạng hợp đồng phân chia sản phẩm. Điều khoản cơ bản của
dạng hợp đồng này là nhà đầu t (các công ty dầu mỏ) đồng ý tiến hành mọi hoạt
động tìm kiếm, thăm dò bằng nguồn tài chính của riêng mình. Nếu có phát hiện
thơng mại, nhà đầu t tiếp tục chi cho các hoạt động phát triển, khai thác. Lợng
dầu khí khai thác lên sau khi nộp cho thuế tài nguyên sẽ đợc chia theo tỷ lệ sản
lợng cho nớc chủ nhà. Để san sẻ rủi ro và đảm bảo lợi nhuận ổn định, ngoài việc
liên minh, liên kết trong các hợp đồng phân chia sản phẩm, hầu hết các công ty
dầu mỏ có chiến lợc phát triển theo mạng đầu t ở nhiều nơi, nhiều nớc và theo
chiều dọc.
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng phân chia sản phẩm, các nớc sở hữu
dầu mỏ nhận thấy rằng cần phải giảm thiểu sự phụ thuộc vào các công ty đa
quốc gia, tiếp cận trực tiếp với ngành công nghiệp này và đảm bảo an ninh năng
lợng cho mình vì thế các công ty dầu mỏ ở các quốc gia ra đời. Quá trình
chuyển giao năng lợng trong ngành này từ các nớc phát triển sang các nớc đang
phát triển đã diễn ra mạnh mẽ. Nhờ đó các công ty dầu mỏ quốc gia này ngày
càng tham gia tích cực hơn vào thị trờng dầu mỏ quốc tế. Nhiều công ty đã tiến
hành hoạt động xuất khẩu và đầu t rất có hiệu quả.
Một đặc điểm nữa của công nghiệp dầu mỏ là luôn tồn tại sự biến động về
giá dầu thô và sản phẩm buộc các tập đoàn phải có những giải pháp tổ chức áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng và phát triển, để tạo thế cạnh
tranh về môi trờng địa chất, địa lý, về giá thành thăm dò, khai thác, vận chuyển,
chế biến, lợi nhuận.
4. Khai thác và xuất khẩu dầu mỏ
Suốt từ năm 1858 đến năm 1960, mọi hoạt động dầu mỏ đợc thực hiện chủ
yếu ở các vùng thuộc châu Mỹ, Trung Đông và một số vùng khác. Các tập đoàn
t bản đã nhanh chóng nắm bắt khai thác nguồn năng lợng mới này để khống chế
chi phí và thu lợi nhuận tối đa. Hoạt động xuất khẩu dầu mỏ đầu tiên đợc thực
hiện tại nớc Nga (1884) và sự phát hiện vùng dầu Texas vào cuối thế kỷ XIX,
những năm đầu thế kỷ XX Venuezela bắt đầu khai thác dầu, đến chiến tranh thế
giới lần hai thì về cơ bản giá dầu đã ở mức từ 5 - 7 USD/1thùng. Cuối năm
1960, Tổ chức các nớc xuất khẩu dầu mỏ OPEC ra đời, từ đó lấy lại thế bình
quân trong cạnh tranh và chi phối giá cả, lợi nhuận dầu khí trên toàn thế giới và
cũng đặt nền móng cho hoạt động xuất khẩu dầu khí của các quốc gia - một
hoạt động mang lại rất nhiều lợi nhuận cho các quốc gia.
Tuỳ theo nguồn tính toán, trữ lợng dầu mỏ thế giới vào khoảng từ 1148 tỉ
thùng (theo BP Statistical Review 2004) đến 1260 tỉ thùng (theo Oeldorado
2004 của Exxon Mobil). Trữ lợng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác
mang lại hiệu quả kinh tế với kỹ thuật hiện đại đã tăng lên trong những năm gần
đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003. Ngời ta dự đoán rằng trữ lợng dầu mỏ
sẽ đủ dùng cho 50 năm nữa.
Việt Nam đợc xếp vào các nớc xuất khẩu dầu mỏ là từ năm 1991, khi sản lợng
khai thác mới đạt vài ba triệu tấn. Đến nay, sản lợng dầu khí khai thác và xuất
khẩu hàng năm đã đạt hơn hai chục triệu tấn. Công việc khai thác đã từng bớc
đợc hoàn thiện.
II. Thị trờng dầu mỏ thế giới
1. Đặc điểm thị trờng dầu mỏ thế giới
Thị trờng dầu mỏ thế giới là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán về
dầu mỏ giữa các quốc gia trên khắp thế giới. Nó có những đặc điểm chung song
cũng có những điểm hết sức khác biệt so với các thị trờng khác.
Thứ nhất, đây là một thị trờng lớn do nhu cầu phong phú, đa dạng về dầu mỏ
của các quốc gia trên khắp thế giới. Trong khi mà các nguồn tài nguyên không
thể tái sinh ngày càng cạn kiệt và những nguồn năng lợng khác cha thể thay thế
đợc vai trò chiến lợc của dầu mỏ thì nhu cầu về dầu mỏ vẫn ngày một tăng với
một số lợng lớn các giao dịch mua bán dầu mỏ giữa các quốc gia, các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trên thế giới.
Thứ hai, thị trờng dầu mỏ còn hết sức nhạy cảm với những biến động về kinh
tế, chính trị trên toàn cầu từ đó dẫn đến những biến động trên chính thị trờng
dầu mỏ. Chỉ cần xảy ra một sự bất ổn định về mặt chính trị của một trong những
quốc gia xuất khẩu dầu nh là sự căng thẳng về chính trị tại Nigieria hay các
hoạt động phá hoại của lực lợng chống đối tại iraq, sự bất ổn các nguồn cung từ
Nga (vụ Yukos) cũng có thể làm chao đảo thị trờng dầu mỏ mà điển hình là sự
tăng giá dầu đến mức kỷ lục vào tháng 10/2004.
Thứ ba, thị trờng dầu mỏ thế giới chịu sự chi phối rất lớn của tổ chức OPEC.
Các quyết định, chính sách của OPEC về cung cầu dầu mỏ cũng nh giá dầu đều
có tác động rất lớn đến thị trờng dầu mỏ thế giới. Chẳng hạn nh khi OPEC ra
quyết định cắt giảm sản lợng vào tháng 4/2004, ngay lập tức thị trờng đã có
những phản ứng và biến động khác nhau trớc quyết định này. Trên các thị trờng
kỳ hạn, giá dầu có xu hớng giảm nhẹ ngay sau khi OPEC cắt giảm sản lợng do
các nhà giao dịch bán ồ ạt các hợp đồng kỳ hạn để kiếm lợi. Ngày 1/4/2004, giá
dầu thô tại thị trờng New York giao tháng 5 giảm 1,49 USD xuống còn 34,27
USD/1 thùng nhng sau đó giá dầu lại tiếp tục tăng mạnh trên các thị trờng giao
dịch. Bảng 1 sẽ cho ta thấy sự biến động giá xăng dầu sau quyết định cắt giảm
sản lợng của OPEC.
Bảng 1: Biến động giá xăng dầu sau quyết định cắt giảm sản lợng
của OPEC
Đơn vị: USD/thùng
Ngày 02/04 Ngày 08/04 Ngày 16/04
Tại sở giao dịch hàng hoá New York
Dầu thô, kỳ hạn
- Giao tháng 5/2004 34,39 36,15
- Giao tháng 6/2004 33,87 35,60 36,99
- Giao tháng 7/2004 33,44
Tại sở giao dịch dầu lửa quốc tế
London
Dầu thô Bren biển Bắc, kỳ hạn
Dầu thô, kỳ hạn
- Giao tháng 5/2004 30,02 32,45
- Giao tháng 6/2004 30,02 32,26 33,64
- Giao tháng 7/2004 29,84
Giá sản phẩm dầu tại thị trờng
Singapore, FOB Singapore
- Xăng 97 RON 46,95-47,05 45,70-45,80
- Xăng 95 RON 43,65-43,75 43,55-43,65
Nguồn: Viện nghiên cứu Bộ Thơng mại
2. Tổ chức các nớc xuất khẩu dầu mỏ OPEC
Thị trờng dầu mỏ thế giới chịu sự chi phối và phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức
xuất khẩu dầu mỏ OPEC. Đây là một tổ chức đa chính phủ đợc thành lập bởi
các nớc iran, I-rắc, Kwait, ả Rập Saudi và Venezuela trong hội nghị tại Baghda
(từ ngày 10 tháng 9 đến 14 tháng 9 năm 1960). Các thành viên gồm Qatar
(1961), Nam Dơng (1962), LiBi (1962). Các tiểu vơng quốc ả Rập thống nhất
(1967), Algeria (1969) và Nigeria (1971) lần lợt gia nhập tổ chức sau đó.
Ecuador (1973 - 1992) và Gabon (1975 - 1994) cũng từng là thành viên của
OPEC. Trong năm năm đầu tiên đặt trụ sở cuả OPEC tại Geneve, Thuỵ Sĩ, sau
đó chuyển về Viên, áo từ tháng 9/1965. Các nớc thành viên OPEC khai thác
vào khoảng 40% tổng sản lợng dầu thế giới và nắm giữ khoảng 3/4 trữ lợng dầu
thế giới.
OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu của các nớc thành
viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu trên thị trờng thế giới. Hội nghị
các bộ trởng phụ trách vấn đề năng lợng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC đợc tổ
chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trờng dầu mỏ và đề ra các biện pháp
phù hợp để đảm bảo việc cung cấp dầu trên thị trờng dầu mỏ thế giới. Bộ trởng
các nớc thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ
chức hai năm một nhiệm kỳ.
Mục tiêu chính thức đợc ghi vào hiệp định thành lập OPEC là ổn định thị tr-
ờng dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và
ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cỡng chế vì các
quyết định của OPEC. Nhng thật ra nhiều biện pháp đợc đề ra lại có động cơ bắt
nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ nh trong cơn khủng hoảng dầu, OPEC đã
không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài.
Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá.OPEC
dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lợng khai thác
dầu, tạo ra khan hiếm hoặc d dầu giả, thông qua đó có thể có thể tăng, giảm
hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC nh là một liên minh độc quyền luôn
tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất cho mình. OPEC giữ một vị trí quan
trọng nhất trên thị trờng dầu mỏ thế giới. Các mốc chính đánh dấu hoạt động
của OPEC.
* 14/9/1960: thành lập tổ chức OPEC theo đề xuất của Venezuela tại
Baghdad.
* 1965: Dời trụ sở về Viên. Các thành viên thống nhất một chính sách khai
thác chung để bảo vệ giá.
* 1970: Nâng giá dầu lên 30%., nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công
ty khai thác dầu lên 55% của lợi nhuận.
* 1971: Nâng giá dầu sau khi thơng lợng với các tập đoàn khai thác. Tiến
tới đạt tỷ lệ quốc gia hoá 50% các tập đoàn.
* 1973: Tăng giá dầu từ 2,89 USD một thùng lên 11,65USD. Thời gian này
đợc gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lợng dầu
của thế giới.
* Từ 1974 đến 1978: tăng giá dầu 5-10% hầu nh mỗi nửa năm một lần để
chống lại việc USD bị lạm phát.
* 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo, giá
dầu từ 15,5 USD/1 thùng đợc nâng lên 24USD. Lybia, Algeria và iraq thậm chí
đòi đến 30 USD cho một barrel.
* 1980: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybia đòi 41 USD, ả
Rập Saudi đòi 32 USD và các nớc thành viên còn lại là 36 USD cho một thùng
dầu.
* 1981: Lợng tiêu thụ dầu giảm do các nớc công nghiệp lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá
dầu cao, nhiều nớc trên thế giới đầu t vào các nguồn năng lợng khác. Lợng tiêu
thụ dầu trên thế giới giảm 11% trong thời gian từ năm 1979 đến 1983, thị phần
dầu của OPEC trên thị trờng giảm còn 40%.
* 1982: Quyết định cắt giảm sản lợng sản xuất tuy đợc thông qua nhng lại
không đợc các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33%
và vào năm 1985 còn 30% trên tổng số lợng khai thác dầu trên thế giới. Lợng
khai thác dầu giảm xuống mức kỷ lục là 17,43 triệu thùng một ngày.
* 1983: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD/1 thùng. Giảm hạn ngạch
khai thác từ 13,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày.
* 1986: Giá dầu rơi xuống đến dới 10 USD một thùng do sản xuất d thừa
và do một số nớc trong OPEC giảm giá dầu.
* 1990: Giá dầu đợc nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD/1 thùng. Nhờ
vào chiến tranh vùng vịnh giá dầu đạt đến mức đề ra.
* 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vợt qua cả hai mức thấp và cao nhất
trong lịch sử. Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD ngời ta cũng có thể mua đợc một
thùng dầu thì trong quý IV giá đã vợt trên 37 USD/thùng. Các nớc thành viên
của OPEC đồng ý giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
* 1/2005: OPEC quyết định giữ nguyên lợng khai thác 27 triệu thùng. Các
thành viên đã nhất trí tạm ngng không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
3. Những biến động trên thị trờng dầu mỏ thế giới
Kể từ khi có ngành công nghiệp dầu khí đến nay, với khởi đầu Công nghiệp
dầu khí Mỹ, rồi khi Nga bắt đầu xuất khẩu dầu (1884), và phát hiện vùng dầu
Texas vào cuối thế kỷ XIX, những năm đầu thế kỷ XX Venezuala bắt đầu khai
thác dầu, đến chiến tranh thế giới lần thứ hai thì về cơ bản giá dầu cũng chỉ ở
mức từ 5 - 7 USD/1 thùng. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đã liên tiếp xảy ra
nhiều cuộc khủng hoảng giá dầu. Đặc biệt trong những năm gần đây giá dầu thế
giới luôn ở mức cao, gây ra sự biến động trên thị trờng dầu mỏ đặc biệt là từ
năm 2004 đến nay.
Từ năm 1948 đến những năm cuối 1960, giá dầu trung bình của thế giới chỉ
dao động từ 2,5 - 3 USD/1 thùng. Sự ra đời của các nớc thành viên OPEC đảm
bảo cho sự ổn định về giá dầu. Cú sốc giá dầu lần thứ nhất bắt đầu vào cuối
tháng 10/1973 khi Syria và Ai Cập tấn công isarel. Mỹ và các nớc phơng tây đã
hỗ trợ mạnh cho isarel. Trả đũa cho hành động này, hàng loạt các nớc xuất khẩu
dầu trong khối arab đã cấm vận xuất dầu cho các nớc thân với isarel. Họ đã cắt
giảm lợng dầu sản xuất từ 5 triệu thùng một ngày xuống còn một triệu thùng.
Kết quả là trong vòng 6 tháng, giá dầu thế giới đã tăng 400%. Từ năm 1972 -
1978, giá dầu dao động từ 12 - 14 USD/1 thùng so với giai đoạn trớc chỉ có 3
USD/1 thùng. Lần biến động tiếp theo đợc châm ngòi bằng cuộc chiến tranh
giữa iran và iraq năm 1979. Kết quả là lợng dầu sản xuất của hai quốc gia này
sụt giảm. Giá dầu lập tức tăng từ 14 USD/1 thùng năm 1978 lên 38 USD/1
thùng năm 1981, tức tăng 271%. Cú sốc giá dầu thứ ba xảy ra vào giai đoạn
iraq tấn công Kuwait năm 1990 - 1991. Giá dầu từ mức 20 USD/1 thùng đã tăng
lên 35 USD/1 thùng vào tháng 10/1990.
Lần giá dầu tăng vọt gần đây là vào năm 2002. Theo dõi diễn biến giá dầu
thô từ đầu năm 2002 đến nay, nếu bỏ qua các thăng giáng đột xuất, ngắn ngày,
thì khuynh hớng chung là tăng tuyến tính theo thời gian đặc biệt là biến động
tăng giá dầu trong những năm gần đây. Giá dầu thị trờng thế giới vào tháng
1/2003 là khoảng 32 USD/1 thùng, đến tháng 1/2004 là 34 USD/1 thùng và cứ
tăng dần.
Bảng 2: Sự biến động giá dầu từ năm 2003 đến 2004
Đơn vị: USD/1 thùng
Loại dầu
2003 (Quý) 8 tháng 2004 (Tháng)
Q1 Q2 Q3 Q4 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8
Dầu nhẹ - rập 28 23 26 27 28 27 28 29 30 32 35 40
Dầu Brent 29 26 28 29 30 31 32 33 34 38 41 45
Dầu WTI (Mỹ) 29 34 30 32 34 35 36 38 40 42 44 48
Nguồn: Viện nghiên cứu Bộ Thơng mại
4. Nguyên nhân của biến động
Giá dầu thô cùng với những sản phẩm của nó có những vị trí hết sức quan
trọng. Khi giá dầu lên cao có thể gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế các nớc và
tác động đến nền kinh tế toàn cầu nói chung, làm cho thơng mại và đầu t quốc
tế suy giảm. Bối cảnh kinh tế nói chung khi giá dầu tăng hiện nay rất khác so
với những cơn sốt giá dầu trớc đây, tất cả đều xảy ra đồng thời với với hiện tợng
phát triển bùng nổ kinh tế do nhiều nền kinh tế hoạt động quá nóng. Biến động
của giá dầu do nhiều nhân tố nh nhân tố chính trị và sự bất ổn trên thế giới với
yếu tố tâm lý, là những nhân tố có tác động mạnh, còn nhân tố cung cầu là nhân
tố quyết định sự biến động giá dầu trên thị trờng thế giới.
Nhân tố quyết định gây nên sự biến động trên thị trờng mỏ chính là nhân tố
cung cầu. Cung dầu thô ngày càng hạn chế do dầu thô là nguồn tài nguyên
không tái tạo đợc. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra hàng loạt các tranh luận
gay gắt về tình trạng cạn kiệt dầu. Trong những năm gần đây, các mỏ mới và
lớn, phát hiện ngày càng ít dần, trong lúc các mỏ đang khai thác thì đang đi vào
giai đoạn đỉnh điểm của hoặc đang chuyển sang giai đoạn kết thúc. Theo thông
báo của Trung tâm phân tích tình trạng cạn kiệt dầu có trụ sở ở London, thì năm
2000 có 13 mỏ mới đợc phát hiện với trữ lợng 500 triệu thùng trở lên, năm 2001
giảm xuống còn 6 mỏ, năm 2002 phát hiện 2 mỏ và đến năm 2003 chỉ còn 1 mỏ
thuộc tầm cỡ nói trên. Các mỏ có trữ lợng trên 500 triệu thùng cung cấp đến
80% sản lợng dầu tiêu thụ trên thị trờng thế giới, do đó hiện tợng cạn kiệt dầu
trở thành một nguy cơ đối với toàn cầu.Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ dầu
không ngừng gia tăng, đặc biệt ở những nớc đang phát triển, nhất là Trung
Quốc và ấn Độ. Và từ năm 2003, Mỹ đã tăng mức dự trữ dầu thô chiến lựoc lên
đến 700 triệu thùng, cũng làm cho nhu cầu sử dụng dầu trên thế giới tăng lên.
Để đảm bảo an ninh năng lợng, các nớc công nghiệp đều lo dự trữ dầu và tìm
cách khống chế các nguồn cung dầu bằng các biện pháp quân sự, gây bất ổn
định chính trị xã hội.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét