Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

366 Giải pháp đối với chính sách trợ cập xuất khẩu nông sản Việt Nam cho phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế


4
- Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam bao gồm
những thành công và hạn chế. Thực trạng về khả năng cạnh tranh của mặt hàng
nông sản Việt Nam trong hội nhập kinh tế thế giới.
- Phân tích các biện pháp trợ cấp nông sản của Việt Nam trong thời gian
qua. Qua đó, đánh giá sự phù hợp của các biện pháp trợ cấp xuất khẩu đối với các
quy định của WTO.
- Nêu lên các cam kết của Việt Nam về trợ cấp khi gia nhập WTO và đánh
giá tác đ6ọng của các cam kết đó đối với các doanh nghiệp và nông dân Việt Nam.
CHƯƠNG 3: Giải pháp đổi mới chính sách trợ cấp xuất khẩu nông sản Việt
Nam cho phù hợp quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3 được xây dựng dựa trên 02 bộ quy định về trợ cấp là Hiệp định
AoA và Hiệp định SCM và xu hướng sử dụng trợ cấp của thế giới cùng với những
bài học kinh nghiệm đã nêu ở chương 1, thực trạng các biện pháp tài trợ xuất khẩu
của Việt Nam ở chương 2.

Do tính chất phức tạp của các vấn đề nghiên cứu cho nên tôi gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm số liệu và khả năng trình độ của tác giả có hạn. vì thế, luận văn
còn nghèo nàn về số liệu để minh họa và không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của Quý thầy, cô và hội đồng để luận
văn được hòan thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn.


5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ TRỢ CẤP
VÀ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU

1.1
KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI TRỢ CẤP
1.1.1 Khái niệm về trợ cấp:
Trợ cấp là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở hầu
hết các nước nhằm đạt các mục tiêu của chính phủ về kinh tế - xã hội - chính trị, ….
Tuy vậy, việc đi đến một khái niệm tương đối chính xác và thống nhất về “trợ cấp”
là một chủ đề gây tranh cãi không chỉ giữa các quốc gia mà còn giữa các học giả.
Một vấn đề cũng gây tranh cãi không kém là làm thế nào để phân biệt giữa các hình
thức trợ cấp chấp nhận được với các trợ cấp gây bóp méo thương mại, hay trả lời
câu hỏi “Những trợ cấp nào không được chấp nhận trong thương mại quốc tế?”.
Tùy theo mục đích mà định nghĩa trợ cấp có thể rộng hay hẹp. Chẳng hạn,
định nghĩa rất hẹp về trợ cấp có thể chỉ bao gồm mỗi biện pháp cấp tiền trực tiếp
cho một ngành hoặc một số doanh nghiệp cụ thể. Nhược điểm của định nghĩa này là
bỏ qua nhiều biện pháp trợ cấp khác có ảnh hưởng về mặt kinh tế tương đương với
biện pháp cấp tiền trực tiếp này. Do đó, có thể gây khó khăn hoặc nhầm lẫn trong
việc so sánh mức trợ cấp giữa các nước khác nhau.
Tuy nhiên, định nghĩa rộng hơn về trợ cấp lại cũng có những điểm yếu riêng
như bao trùm cả ảnh hưởng do các hoạt động của chính phủ vào phạm vi định
nghĩa, dẫn tới việc đánh đồng nhiều hoạt động của chính phủ cũng mang tính chất
của một biện pháp trợ cấp. Ví dụ như bảo hiểm thất nghiệp có thể bị coi là trợ cấp
gián tiếp cho một số ngành nghề nhất định mang tính thời vụ hoặc chu kỳ. Hay chi
phí của chính phủ cho các hàng hóa công cộng như tư pháp, an ninh, giáo dục,
đường sá, quốc phòng,… cũng có thể bị xem là trợ cấp.

6
Theo định nghĩa của Từ điển Oxford dành cho giới kinh doanh (nhà xuất bản
Đại học Oxford 1994), “trợ cấp là khoản tiền do nhà nước cấp cho các nhà sản xuất
một số hàng hóa nhất định để giúp họ có thể bán các hàng hóa đó cho dân chúng với
giá thấp, để cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài, để tránh hàng tồn đọng
thừa ế và tránh tạo ra thất nghiệp,…. Nhìn chung, trợ cấp gây bóp méo thương mại
quốc tế và không phổ biến nhưng đôi khi vẫn được các chính phủ sử dụng để giúp
tạo dựng một ngành sản xuất mới trong nước”.
Như vậy trợ cấp của chính phủ là một công cụ trực tiếp tái phân phối nguồn thu
ngân sách của chính phủ cho một số đối tượng. Trợ cấp có thể dưới dạng cho vay,
xóa nợ, hoàn hoặc miễn thuế. Trong một số trường hợp khác, chính phủ không nhất
thiết phải trích từ nguồn ngân sách của mình để trợ cấp mà có thể thông qua công cụ
luật pháp để hướng nguồn lực từ nhóm đối tượng này chuyển sang cho nhóm đối
tượng khác, cụ thể ở đây là làm lợi cho nhà sản xuất bằng tiền từ túi người tiêu dùng
thông qua việc hỗ trợ giá.
1.1.2 Các quan điểm về trợ cấp xuất khẩu:
- Trợ cấp xuất khẩu (định nghĩa theo Bách khoa toàn thư): Sự ưu đãi về tài chính
hay cung cấp tiền bổ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu hay người sản xuất nhằm giảm
giá thành hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Trợ cấp xuất khẩu là những khoản chi chính phủ thực hiện để khuyến khích
hoạt động xuất khẩu của những sản phẩm xác định. Tương tự như với thuế, các
khoản trợ cấp có thể được tính trên một cơ sở cụ thể nào đó hoặc trên cơ sở giá
hàng hóa. Nhóm sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu phổ biến nhất là sản phẩm nông
nghiệp và sản phẩm chế biến từ sữa.
- Trợ cấp xuất khẩu là những khuyến khích đặc biệt từ phía chính phủ nhằm cổ
vũ hoạt động bán hàng ra nước ngoài. Các khoản trợ cấp phụ thuộc vào biểu hiện
xuất khẩu, có thể dưới hình thứcchi trả bằng tiền mặt, chuyển nhượng hàng trong
kho chính phủ tại mức giá thấp hơn giá thị trường, các khoản trợ cấp được tài trợ
bởi nhà sản xuất, nhà chế biến như là kết quả từ của những vận động từ phía chính
phủ chẳng hạn như thẩm định, trợ cấp marketing, trợ cấp chuyên chở hàng hóa và

7
trợ cấp cho hàng hóa phụ thuộc sự tham gia của chúng vào nhóm các sản phẩm xuất
khẩu.
1.1.3 Phân loại trợ cấp:
1.1.3.1 Trợ cấp nông nghiệp và phi nông nghiệp:
Dưới góc độ lĩnh vực kinh tế, người ta chi trợ cấp thành trợ cấp nông nghiệp
và trợ cấp phi nông nghiệp.
Theo cách hiểu thông thường, trợ cấp nông nghiệp là trợ cấp dành cho các
sản phẩm nông nghiệp và cho các hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Ví dụ: trợ
cấp nghiên cứu giống cây, giống con; trợ cấp cho nông dân trồng lúa, trợ cấp đầu
vào cho sản xuất nông nghiệp; thưởng theo kim ngạch xuất khẩu nông sản; áp dụng
cước phí vận tải ưu đăi với nông sản xuất khẩu; v.v….
Trợ cấp công nghiệp là trợ cấp dành cho các sản phẩm công nghiệp và cho
các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Ví dụ: thuế nhập khẩu ưu đăi với sản
phẩm cơ khí thực hiện chương trình nội địa hóa; áp dụng lăi suất cho vay ưu đăi
với các dự án phát triển sản phẩm công nghiệp trọng điểm v.v….
Các hiệp định của WTO cũng tạm chia ra điều chỉnh trợ cấp theo: trợ cấp
nông nghiệp (gồm hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu nông sản), trợ cấp phi
nông sản. Hiệp định SCM tạm thời được hiểu là chỉ điều chỉnh về trợ cấp phi nông
sản (tức là các sản phẩm ngoài phạm vi Hiệp định nông nghiệp).
1.1.3.2 Trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu:
Dưới góc độ thương mại quốc tế thì trợ cấp chia thành hai loại: Trợ cấp trong
nước và trợ cấp xuất khẩu.
Trợ cấp trong nước được hiểu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá trước tiên hoặc chủ yếu là để phục vụ thị trường
trong nước, hay nói cách khác, hàng hoá được trợ cấp phải là hàng hoá được tiêu
thụ tại thị trường nội địa của nhà sản xuất. Doanh nghiệp được trợ cấp không nhất
thiết phải là doanh nghiệp 100 % vốn trong nước. Ví dụ chính phủ cung ứng điện
với giá thấp cho ngành sản xuất phân bón trong nước (gồm cả DN 100 % vốn trong
nước, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghệp liên doanh). Tuy nhiên,

8
trợ cấp trong nước có thể có tác động gián tiếp tới hoạt động xuất khẩu nếu sản
phẩm do doanh nghiệp nhận trợ cấp sản xuất ra cuối cùng lại được xuất khẩu. Trong
trường hợp đó, trợ cấp trong nước của một nước sẽ được nhìn nhận như một dạng
“trợ cấp xuất khẩu” dưới góc độ của nước nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp. Như
vậy, tuy rằng mục đích thực chất ban đầu của trợ cấp này không nhằm khuyết khích
xuất khẩu nhưng ảnh hưởng hay tác động của trợ cấp đối với những sản phẩm được
xuất khẩu lại giống với trợ cấp xuất khẩu và do vậy mà có thể bị các nước nhập
khẩu điều tra đánh thuế chống trợ cấp.
Trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ dành riêng cho
hoặc liên quan tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ cấp là đẩy mạnh sản
xuất. Do đó, căn cứ để trợ cấp thông thường là lượng hàng hoá xuất khẩu thực sự
hoặc dự kiến xuất khẩu. Ví dụ: chương trình thưởng xuất khẩu của chính phủ theo
đó doanh nghiệp được thưởng 100 đồng cho mỗi sản phẩm xuất khẩu được. Tuy
nhiên, việc chính phủ đơn thuần trợ cấp cho doanh hoạt động trong lĩnh vực xuất
khẩu không thể nghiễm nhiên dẫn đến kết luận là trợ cấp xuất khẩu mà còn cần xem
xét đến một số yếu tố khác. Trợ cấp xuất khẩu thường có hệ quả là hàng xuất khẩu
được bán trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn trên thị trường nội địa của
nước xuất khẩu.
1.1.3.3 Trợ cấp bị cấm, trợ cấp có thể dẫn tới hành động và trợ cấp
không dẫn tới hành động:
Hiệp định SCM chia trợ cấp thành 3 dạng dựa trên mức độ ảnh hưởng đến
thương mại đại chúng:
 Trợ cấp bị cấm áp dụng (trợ cấp đèn đỏ) bao gồm trợ cấp xuất khẩu
và trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu. Hai dạng
trợ cấp này bị cấm sử dụng vì tác động tiêu cực tới thương mại và ảnh hưởng bất lợi
đến lợi ích của các nước thành viên WTO khác.
Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp phụ thuộc hoàn toàn hoặc một phần, dù theo luật
hay trên thực tế vào việc thực hiện hoạt động xuất khẩu.

9
Trợ cấp khuyết khích sử dụng hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu (hay còn
gọi là trợ cấp thay thế nhập khẩu) là trợ cấp phụ thuộc hoàn toàn hoặc một phần
vào việc sử dụng hàng xuất khẩu trong nước so với hàng nhập khẩu. Ví dụ các
doanh nghiệp lắp ráp ô tô sử dụng phụ tùng, linh kiện sản xuất trong nước chiếm ít
nhất 60% giá trị ô tô thành phẩm được hưởng ưu đăi thuế.
Nhiều trường hợp các nước còn sử dụng kết hợp cả hai dạng trợ cấp bị cấm
này, như trợ cấp 60 USD/tấn bột mỳ xuất khẩu nhằm bù đắp lại việc công ty phải
chấp nhận chỉ sử dụng lúa mì trong nước với giá cao hơn thông thường để sản xuất
bột mì.
 Trợ cấp có thể dẫn tới hành động trả đũa (trợ cấp đèn vàng) là trợ
cấp có khả năng bị khiếu kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO hoặc có
thể bị đánh thuế chống trợ cấp nếu trợ cấp đó gây thiệt hại đối với nước thành viên
WTO khác. Trong mọi trường hợp, nếu một nước muốn áp dụng hành động khắc
phục thương mại chống lại hành vi trợ cấp của nước khác, nước đó phải chứng tỏ
được rằng trên thực tế, hành vi của nước khác đúng là trợ cấp theo định nghĩa tại
Điều 1 Hiệp định SCM, là trợ cấp riêng biệt theo Điều 2 hiệp định này, và gây tác
động thương mại bất lợi cho nước muốn áp dụng hành động khắc phục thương mại.
 Trợ cấp không dẫn tới hành động trả đũa (trợ cấp đèn xanh) là trợ
cấp không bị khiếu kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO hay bị đánh thuế
chống trợ cấp. Trợ cấp dạng này gồm các trợ cấp không riêng biệt theo cách hiểu
của Điều 2 và các trợ cấp thỏa măn một số điều kiện và tiêu chí nhất định đối với
(i) chương trình hỗ trợ của nhà nước cho hoạt động nghiên cứu công nghiệp và phát
triển tiền cạnh tranh; hoặc (ii) hỗ trợ của nhà nước cho phát triển vùng; hoặc (iii) hỗ
trợ của nhà nước nhằm giúp các doanh nghiệp đáp ứng những yêu cầu mới về môi
trường. Lý do để các dạng trợ cấp này được duy trì là vì người ta cho rằng chúng
hầu như không gây tác động bất lợi đến lợi ích của các nước thành viên khác, hoặc
do việc áp dụng chúng có lợi nhất định và không nên bị ngăn chặn. Để được công
nhận là trợ cấp đèn xanh, các nước thành viên muốn áp dụng trợ cấp này phải thông

10
báo về biện pháp trợ cấp cho Uỷ ban về Trợ cấp trước khi áp dụng để Uỷ ban này
kiểm tra và kết luận.
1.2
TÁC ĐỘNG CỦA TRỢ CẤP
1.2.2 Trợ cấp trong nước:
1.2.1.1 Tác động thuận lợi:
Trợ cấp trong nước mang lại hiệu quả tích cực cho các nước tiến hành trợ cấp.
Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành trợ cấp cho các doanh nghiệp và sản
phẩm các nước mình nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế xă hội nhất định như
bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành non trẻ hay ngành trọng điểm
của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư cải thiện thu nhập của nhà sản xuất, bù đắp chi
phí đầu tư ban đầu quá lớn,.…Quyết định trợ cấp của chính phủ thường được đưa ra
nhằm phục vụ lợi ích của một đối tượng nhất định có vai trò chi phối và ảnh hưởng
chính trị lớn đối với chính phủ.
Chính phủ có thể trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất hoặc trợ cấp gián tiếp
thông qua đầu vào cho nhà sản xuất. Với mọi hình thức trợ cấp lợi thế và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trong những ngành được trợ cấp luôn được cải thiện và
nâng cao.
Ví dụ ngành sản xuất bút bi của Việt Nam sản xuất mỗi chiếc bút bi với chi
phí là 1.000 đồng, trong khi bút bi nhập ngoại được bán tại Việt Nam với giá 900
đồng/chiếc. Rõ ràng là bút bi ngoại có khả năng cạnh tranh cao hơn bút bi Việt
Nam. Giả sử chính phủ Việt Nam trợ cấp 200 đồng cho mỗi chiếc bút bi sản xuất
trong nước. Khi đó, giá bút bi Việt Nam bán ra có thể rẻ hơn trước kia tới 200
đồng/chiếc và thấp hơn bút bi nhập khẩu. Như vậy, nhờ có trợ cấp của chính phủ,
ngành sản xuất bút bi của Việt Nam có thể cạnh tranh với hàng ngoại nhập và thậm
chí có thể đẩy lùi bút bi nhập khẩu tại thị trường trong nước.
Chẳng những có thể ngăn cản, hạn chế hàng nhập khẩu, trợ cấp sản xuất nội
địa đồng thời còn có thể khiến cho cam kết ràng buộc thuế quan trong khuôn khổ
WTO mất tác dụng, duy trì bảo hộ sản xuất nội địa.

11
Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô,
yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh
mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành. Đối
với những công ty mới gia nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi phí rất cao
trong thời gian đầu, khó cạnh tranh nổi những công ty “đàn anh” đã trụ vững trên
thị trường thì hỗ trợ của chính phủ có thể bù đắp cho những khoản thua lỗ phát sinh
trong những năm đầu, đưa công ty vào quỹ đạo phát triển ổn định.
Ngoài ra, trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất
nghiệp, đảm bảo trật tự và ổn định xă hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho
các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản. Sự hỗ
trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh chóng,
thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng thích nghi và
cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường thương mại
quốc tế tạo ra.
Trợ cấp cũng có thể sử dụng nhằm khuyến khích ngành sản xuất kém sức
cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt động không
hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu lao động được diễn ra suông sẽ hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn
lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích nhập khẩu sản phẩm cạnh tranh từ bên
ngoài thay vì tự cố gắng sản xuất và cung cấp những sản phẩm kém cạnh tranh với
chi phí đầu tư tốn kém.
Trợ cấp một ngành nhất định có thể có tác động ngược chiều đến các ngành
khác trong nền kinh tế. Nếu chính phủ chọn đúng ngành cần đựợc trợ cấp, theo
nguyên lý hiệu ứng lan truyền tích cực, trợ cấp sẽ có khả năng tạo ra hiệu ứng tích
cực theo dây chuyền. Chẳng hạn khi chính phủ trợ cấp cho ngành xi măng thì các
ngành xây dựng cơ sở hạ tầng cũng có điều kiện phát triển. Như vậy, lợi ích của trợ
cấp có thể lan rộng sang cho các ngành khác ngoài chính bản thân ngành được trợ
cấp. Trợ cấp trong nước còn mang lại lợi ích cho người tiêu dùng vì người tiêu dùng
sử dụng sản phẩm được trợ cấp có lợi do giá sản phẩm giảm xuống.

12
1.2.1.2 Tác động không thuận lợi:
Ngoài những tác động thuận lợi nêu trên cho nước tiến hành trợ cấp trong
nước, trợ cấp trong nước còn mang lại những tác động tiêu cực như sau:
• Đối với nước tiến hành trợ cấp trong nước:
Xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, trợ cấp ngăn cản sự phân bổ tối ưu
hiệu quả các nguồn lực quốc gia. Trợ cấp cho một hoặc một số ngành nhất định sẽ
hạn chế khả năng được nhà nước hỗ trợ của các ngành, đối tượng khác vì ngân sách
nhà nước và nguồn lực xă hội có giới hạn. Việc chính phủ quyết định hỗ trợ cho
ngành sản xuất trong nước “thay thuế nhập khẩu” có thể dẫn tới xu hướng vốn đầu
tư và nguồn lực trong xă hội đổ xô vào ngành đó. Thậm chí ngày cả nguồn lực trong
các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu có thể bị thu hút chuyển sang phục vụ ngành
sản xuất nội địa. Về lâu dài, tình trạng này dẫn đến cung vượt cầu trên thị trường.
Hậu quả tất yếu là hàng loạt doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh bị thua lỗ
và đào thải. Nền kinh tế-xă hội bị tổn thất, đồng thời mục đích mong muốn của việc
trợ cấp cũng không đạt được.
Trợ cấp cho một ngành sản xuất nhất định cũng có thể tạo ra gánh nặng cho
những ngành khác. Chi phí cho các yếu tố sản xuất của các ngành khác (vốn đă chịu
sự bất lợi về mặt chiến lược) sẽ bị tăng lên khi ngành sản xuất được trợ cấp ngày
một phát triển với quy mô, sản lượng sản xuất ngày một tăng và thu hút các chi phí
sản xuất nội địa cao sẽ gia tăng vì sản xuất trong nước đă trở nên kém cạnh tranh.
Như vậy, ưu đăi dành cho một hoặc một nhóm nhà sản xuất này lại có ảnh hưởng
giống như một khoản thuế đánh lên những nhà sản xuất khác. Lợi ích thu được nhờ
việc hỗ trợ một ngành nhất định không chắc sẽ bù đắp cho tổn thất mà những ngành
khác phải gánh chịu.
Về phía chính phủ, trợ cấp trong mọi trường hợp đều có ảnh hưởng bất lợi
cho ngân sách nhà nước, cho dù ảnh hưởng bất lợi đó thể hiện trực tiếp hay gián
tiếp, có thể kê khai được hay không kê khai được thành một khoản chi ngân sách cụ
thể.
• Đối với các nước khác:

13
Trợ cấp trong nước của nước này có thể gây tổn hại đến lợi ích xuất khẩu của
nước khác. Nếu trợ cấp của một nước giúp bảo bộ hoặc nâng cao sức cạnh tranh của
ngành sản xuất trong nước thì hiển nhiên gây bất lợi cho nước khác như ngăn cản
nhập khẩu sản phẩm tương tự từ các nước khác vào thị trường nước áp dụng trợ
cấp, làm vô hiệu hóa hoặc làm giảm tác dụng các cam kết ràng buộc thuế quan của
nước trợ cấp. Tác động bất lợi đối với sản phẩm của một nước xuất khẩu vào thị
trường nước tiến hành trợ cấp sản xuất trong nước tồn tại khi:
 Sản phẩm nhập khẩu bị hạn chế hoặc đẩy lùi (mất thị phần) trên thị trường
nước nhập khẩu (nước trợ cấp). Biểu hiện cụ thể của tình trạng này là sự thay đổi thị
phần theo hướng bất lợi cho sản phẩm nhập khẩu cạnh tranh không được trợ cấp
như: có sự gia tăng thị phần của sản phẩm được trợ cấp; thị phần của sản phẩm
được trợ cấp vẫn giữ nguyên không đổi, trong khi nếu không có trợ cấp thì thị phần
này chắc chắn sẽ suy giảm; thị phần của sản phẩm được trợ cấp bị thu hẹp nhưng
với tốc độ giảm chậm hơn so với trường hợp không được trợ cấp.
 Giá của sản phẩm nhập khẩu cạnh tranh tại thị trường nước nhập khẩu (nước
trợ cấp) bị “làm đắt lên một cách tương đối” so với giá của sản phẩm được trợ cấp,
vì giá của sản phẩm trong nước nhập khẩu trước cắt giảm so với trước nhờ có khoản
trợ cấp của chính phủ trong khi giá của sản phẩm nhập khẩu gần như không đổi.
 Lợi ích mà nước xuất khẩu trông đợi được hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ
cam kết ràng buộc thuế quan của nước nhập khẩu trong khuôn khổ WTO bị vô hiệu
hoá hoặc bị suy giảm. Chẳng hạn như nước nhập khẩu cam kết ràng buộc thuế quan
ở mức 10% với sản phẩm màn hình máy tính. Với mức thuế nhập khẩu này, nước
xuất khẩu màn hình máy tính có thể trông đợi mỗi năm sẽ xuất khẩu được 200.000
sản phẩm vào thị trường nước nhập khẩu. Nếu nước nhập khẩu áp dụng trợ cấp với
sản phẩm màn hình sản xuất nội địa, dù thuế nhập khẩu không thay đổi nhưng
lượng sản phẩm nhà nước xuất khẩu có thể xuất vào thị trường nước nhập khẩu
(nước trợ cấp) khi đó sẽ không đạt mức trông đợi bình thường là 200.000 sản phẩm
như trước nữa do nước nhập khẩu tiến hành bảo hộ dản xuất nội địa. Trong trường
hợp này, lợi ích mà nước xuất khẩu đáng ra được hưởng từ cam kết ràng buộc thuế

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét