tiếp cận này là căn cứ để xác định quy mô vốn đầu tư, đánh giá kết quả và hiệu
quả hoạt động cho từng ngành lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư những tài sản
vật chất (tài sản thực) và đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư các tà sản vật chất
gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng tồn trữ.
Đầu tư tài sản vô hình gồm các nội dung sau: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học, kĩ thuật, đầu tư
xây dựng thương hiệu, quảng cáo.
1.2.2. Đầu tư tài chính và đầu tư thương mại
1.2.2.1. Đầu tư tài chính
Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị
truờng vốn để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ)
hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
phát hành (mua cổ phiếu…). Đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư không trực
tiếp làm tăng sản phẩm thực (tài sản vật chất) cho nền kinh tế (nếu không xét đến
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho
chủ đầu tư. Mua cổ phiếu (đầu tư cổ phiếu) gắn với việc chuyển quyền sở hữu và
hoạt động cho vay dẫn đến chuyển quyền sử dụng,do vậy, hai loại đầu tư này đều
thuộc hoạt động đầu tư dịch chuyển. Đầu tư tài chính thường được thực hiện gián
tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán. Đầu
tư tài chính còn có đặc điểm là: chủ đầu tư thường có kì vọng thu được lợi nhuận
cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý
muốn. Tuy nhiên, đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt
động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa
hoá lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho chủ đầu tư.
1.2.2.2. Đầu tư thương mại
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá
khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh
tế.
1.2.3. Mối quan hệ giữa ba loại hình đầu tư
Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là ba loại hình đầu
tư luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề
để tăng tích luỹ, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thuơng mại.
Ngược lại đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng
cường đầu tư phát triển.
1.3. Các lí thuyết kinh tế về đầu tư
1.3.1.Số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy
sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng 1 đơn vị .
Công thức tính:
k = ∆Y/ ∆I (1)
5
Trong đó: ∆Y: Mức gia tăng sản lượng
∆I : Mức gia tăng đầu tư
k : Số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta được
∆Y = k * ∆I (2)
Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên
số nhân lần. Trong công thức trên, k là số dương lớn hơn 1. Vì, khi I = S, có thể
biến đổi công thức (2) thành:
k =
I
Y
∆
∆
=
s
Y
∆
∆
=
CY
Y
∆−∆
∆
=
Y
C
∆
∆
−
1
1
=
MPC
−
1
1
=
MPS
1
(3)
Trong đó:
MPC =
Y
C
∆
∆
Khuynh hướng tiêu dùng biên
MPS =
Y
s
∆
∆
Khuynh hướng tiết kiệm biên
Vì MPS < 1 nên k >1
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuyếch đại của sản lượng
càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến cầu về các tư liệu sản xuất (máy móc,
thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và quy mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này
làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế.
1.3.2.Gia tốc đầu tư
Số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư gia tăng sản
lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như
vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes (nhà kinh tể học
trong thập niên 30 thế kỉ trước), đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung,
nghĩa là, mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào.
Theo lí thuyết này, để sản xuất ra 1 đơn vị đầu ra cho trước cần phải có
một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể
được biểu diễn như sau:
x =
Y
K
(4)
Trong đó:
K: Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu
Y: Sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x : Hệ số gia tốc đầu tư
Từ công thức (4) suy ra:
K = x * Y (5)
Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến
nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng
6
hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố
sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất.
Theo công thức (5), có thể kết luận:sản lượng phải tăng liên tục mới là cho
đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kì trước.
* Ưu điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
- Lí thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu
x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá
chính xác.
- Lí thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi
kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn,dẫn
đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
*Nhược điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
- Lí thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tưlà cố định.thực tế
đại lượng này (x) luôn luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác
nhau.
- Thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ
không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng.
Vì, từ công thức (5) có thể viết:
+ Tại thời điểm t: Kt = x * Yt (6)
+ Tại thời điểm (t-1): K(t-1) = x *Y(t-1) (7)
+ Lấy (6) trừ (7) ta được:
Kt – K(t-1) = x*Yt – x*Y(t-1) = x*( Yt – Y(t-1)) (8)
Trong đó:
Kt – K(t-1): Đầu tư ròng và bằng (It – D) với D là khấu hao
Do đó:
It – D = Kt – K(t-1) =x * (Yt – Y(t-1)) = x *
Y
∆
(9)
Và đầu tư ròng:
YxI
∆=∆
*
(10)
Như vậy, theo lí thuyết này, đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng
đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần). Nếu sản lượng
giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không
đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0. (Khi
0
=∆
y
thì
∆
I =0)
- Theo lí thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện
ngay trong cùng một thời kì. Điều này không đúng bởi nhiều lí do, chẳng hạn do
việc cung cấp các yếu tố liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do
cầu vượt quá cung… Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tuc được hoàn thiện qua
thời gian.theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được
xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tạivà quá khứ, nghĩa là, qui mô
đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi: Kt và K (t-1) là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và (t-1)
Kt* là vốn đầu tư mong muốn
λ
là một hằng số ( 0<
λ
<1 )
Thì: Kt – K(t-1) =
λ
*(Kt* - K(t-1))
7
Có nghĩa là, sự thay đổi đầu tư thực hiện giữa hai kì chỉ bằng một phần của
chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kì t và vốn đầu tư thực hiện thời kì
t - 1. Nếu
1
=
λ
thì Kt = Kt*.
Và lí thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu
tư.
Theo lí thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thi đầu tư thuần:
).1(
−−=−=∆
tKKtDtItI
Theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì: Kt – K(t-1) =
))1(*(*
−−
tKKt
λ
.
Và do đó:
))1(*(*
−−=∆
tKKtI
λ
Để xác định tổng đầu tư,chúng ta giả định: Dt =
)1(*
−
tK
δ
δ
là hệ số khấu hao và 0
1
<<
δ
.
Do đó:
It –Dt = It -
))1(*(*)1(*
−−=−
tKKttK
λδ
hoặc
It =
)1(*))1(*(*
−+−−
tKtKKt
δλ
(11)
It chính là tổng đầu tư trong kì và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực
hiện.
Lí thuyết gia tốc đầu tư và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại
giữa đầu tư và sản lượng. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo việc gia tăng
bổ sung lao động,nguyên vật liệu sản xuất… dẫn đến gia tăng sản phẩm (giải
thích qua số nhân đầu tư). Sản lượng gia tăng,dẫn đến gia tăng tiêu dung (do thu
nhập người tiêu dùng tăng), tăng cầu hàng hóa và dịch vụ nên lại đòi hỏi gia tăng
đầu tư mới (giải thích qua mô hình gia tốc đầu tư). Gia tăng đầu tư mới dẫn đến
gia tăng sản lượng, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đầu tư. Quá
trình này diễn ra liên tuc, dây chuyền.
1.3.3.Quỹ nội bộ của đầu tư
Theo lí thuyết này,đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I = f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ
được lựa chọn. Vì lợi nhuân cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư
sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại,
tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu
và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội
bộ của doanh nghệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn
vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm
vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào tình
trạng phá sản. Do đó việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu
đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không
phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các
doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do
dự án đem lại trong tương lai lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ nôi bộ của đầu tư, các doanh nghiệp
thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia
tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giữa lí thuyết gia tốc đầu tư và lí thuyết nàydẫn đến việc thực
thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lí thuyết gia tốc đầu
8
tư, chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản
lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp
không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại, theo lí thuyết quỹ nội bộ của đầu
tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng
đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội
bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính
sách tài khóa mở rộng không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lí thuyết
này.
1.3.4.Lí thuyết tân cổ điển
Theo lí thuyết này thì đầu tư bằng tiết kiệm (ở mức sản lượng tiềm năng).
Còn: tiết kiệm S = s*y trong đó 0
1
<<
s
.
s: Mức tiết kiệm từ 1 đơn vị sản lượng(thu nhập) và tỷ lệ tăng trưởng của
lao động bằng với tỷ lệ tăng dân số và kí hiệu là n.
Theo hàm sản xuất,các yếu tố của sản xuất là vốn và lao động có thể thay
thế cho nhau trong tương quan sau đây:
y = A*
)(
π
E
*
)(
α
K
* N
)1(
α
−
(12)
Trong đó:
y : Sản lượng
)(
α
K
: Vốn đầu tư
N
)1(
α
−
: Lao động
A*
)(
π
E
biểu thị ảnh hưởng của yếu tố công nghệ.
α
và
)1(
α
−
là hệ số co giãn thành phần của sản xuất với các yếu
tố vốn và lao động (thí dụ nếu
α
=0.25 thì 1% tăng lên của vốn sẽ làm cho sản
lượng tăng lên 25%). Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì
α
và
)1(
α
−
biểu
thị phần thu nhập quốc dân từ vốn và lao động.
Từ hàm sản xuất Cobb Douglas trên đây ta có thể tính được tỷ lệ tăng
trưởng của sản lượng như sau:
g = r +
nh *)1(*
αα
−+
(13)
Trong đó:
g: Tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng
h: Tỷ lệ tăng trưởng của vốn
n: Tỷ lệ tăng trưởng lao động
Biểu thức trên cho thấy:tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận
với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Trong một nền kinh tế ở “thời đại hoàng kim”có sự cân bằng trong tăng
trưởng của các yếu tố sản lượng,vốn và lao động.
Gọi đầu tư ròng là
I
∆
và
KI
∆=∆
YsSK *
==∆
suy ra
YsK *
=∆
Chia cả 2 vế cho K, ta được:
K
Ys
K
K *
=
∆
Hoặc: h = s *
K
Y
9
Khi h không đổi,s không đổi thì
K
Y
cũng không đổi và Y phải tăng trưởng
cùng tỷ lệ như h và K.
Khi đó: g =
ngr *)1(*
αα
−++
Ở đây g là tỷ lệ tăng trưởng ở “thời đại hoàng kim”.
Suy ra:
g -
nrg *)1(*
αα
−+=
(1-
−+=
1(*) rg
α
α
)*n
Hay g =
n
r
+
−
α
1
(14)
Như vậy, trong “thời đại hoàng kim”, tỷ lệ tăng trưởng g phụ thuộc vào tỷ
lệ tăng trưởng của công nghệ và lao động. Điều này cho thấy,không thể có thu
nhập trên đầu người tăng nếu không có sự tiến bộ của công nghệ.
1.3.5.Mô hình Harrod - Domar
Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng
kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t
g =
Yt
Y
∆
: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Y
∆
: Sản lượng gia tăng trong kì
S : Tổng tiết kiệm trong năm
s =
Yt
S
: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức: ICOR =
Y
K
∆
∆
Nếu
IK
=∆
, ta có : ICOR =
Y
I
∆
Ta lại có: I = S =s *Y. Thay vào công thức tính ICOR,ta có:
ICOR =
Y
Ys
Y
K
∆
=
∆
∆
*
Từ đây suy ra:
R
*
ICO
Ys
Y
=∆
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Y
ICO
Ys
Y
Y
g :
R
*
=
∆
=
Cuối cùng ta có:
RICO
s
g
=
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu
tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn vốn
của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (
∆
K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp
gia tăng
∆
Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến,nhằm xem xét
vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu,
nên những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối
10
với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn
đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan
trọng là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ
thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng.
2/ Tổng quan về tăng trưởng và phát triển kinh tế
2.1. Một số quan điểm
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia tuỳ theo quan niệm khác
nhau của các nhà lãnh đạo đã lựa chọn con đường phát triển khác nhau. Nhìn một
cách tổng thể có thể hệ thống sự lựa chọn ấy theo ba con đường: nhấn mạnh tăng
trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và phát triển toàn
diện.
2.1.1. Quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng kinh tế
Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa trước đây thường
lựa chọn con đường nhấn mạnh tăng trưởng nhanh. Sự phát triển kinh tế của các
nước Mehico, các nước OPEC và kể cả Philipin, Malaysia, Indonesia đi theo sự
lựa chọn này.
Nội dung: Chính phủ tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng mà bỏ qua các nội dung xã hội. Các vấn đề về bình đẳng, công
bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng
trưởng thu nhập đã đạt được một trình độ khá cao.
Kết quả: Nhiều quốc gia thực hiện theo mô hình này đã làm cho nền kinh
tế rất nhanh khởi sắc. Tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất cao.
Hạn chế: - Bất bình đẳng về kinh tế xã hội ngày càng gay gắt, các nội dung
về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan tâm, một số giá trị
văn hoá, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức thuần phong mỹ tục tốt đẹp
của nhân dân bị phá huỷ.
- Việc chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh trước mắt đã nhanh
chóng dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên, huỷ hoại môi trường sinh thái, chất
lượng tăng trưởng kinh tế không bảo đảm và vi phạm những yêu cầu phát triển
bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo ra lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế
ở giai đoạn sau.
2.1.2. Quan điểm nhấn mạnh công bằng xã hội
Đây là mô hình khá nổi bật của các nước đi theo mô hình Chủ nghĩa xã hội
trước đây, trong đó có cả Việt Nam.
Nội dung: Đưa ra yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội ngay từ đầu trong
điều kiện thực trạng tăng trưởng thu nhập ở mức độ thấp. Các nguồn lực phát
triển, phân phối thu nhập cũng như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, văn hoá được
quan tâm và thực hiện theo phương thức dàn đều, bình quân cho mọi ngành, mọi
vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Kết quả: Các nước đã đạt được một mức độ khá tốt về các chỉ tiêu xã hội.
Công bằng xã hội cao.
Hạn chế: Nền kinh tế thiếu các động lực cần thiết cho sự tăng trưởng
nhanh, mức thu nhập bình quân đầu người thấp, nền kinh tế lâu khởi sắc và ngày
11
càng trở nên tụt hậu so với mức chung của thế giới. Các chỉ tiêu xã hội thường
chỉ đạt cao về mặt số lượng mà có thể không bảo đảm về chất lượng.
2.1.3. Quan điểm phát triển toàn diện
Hiện nay, nền kinh tế mở cửa, hội nhập cho phép nhiều nước đang phát
triển tận dụng lợi thế lịch sử để thực hiện một sự lựa chọn tối ưu hơn bằng con
đường phát triển toàn diện. Hàn Quốc, Đài Loan là những nước đã thực hiện theo
sự lựa chọn này. Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam
đã thể hiện sự lựa chọn theo hướng phát triển toàn diện.
Nội dung: Đi đôi với thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, đưa ra mục
tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát
triển. Theo mô hình này, Chính phủ các nước, một mặt đưa ra các chính sách thúc
đẩy tăng trưởng nhanh, khuyến khích dân cư làm giàu, phát triển kinh tế tư nhân
và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp nguồn lực; mặt khác, cũng
đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc sống
dân cư.
* Việc hệ thống hoá các con đường phát triển kinh tế mặc dù mang nội
dung tương đối, nhưng nó là cần thiết để giúp các nước, căn cứ vào điều kiện
kinh tế, chính trị trong và ngoài nước ở từng giai đoạn cụ thể để lựa chọn hướng
đi thích hợp cho mình.
2.2. Khái niệm
2.2.1.Tăng trưởng kinh tế
Phúc lợi vật chất được đo lường bằng giá trị hàng hoá và dịch vụ mà nền
kinh tế sản xuất ra. Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế là nghiên cứu về khả năng
của các nền kinh tế sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Khi một nước có tăng truởng
kinh tế, thì dân cư trong nước nhìn chung sẽ có cuộc sống sung túc hơn. Tăng
trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng về mặt thu nhập của một nền kinh
tế trong khoảng thời gian nhất định, thường tính là một năm.
Nhìn chung,tăng trưởng kinh tế được tính bằng % thay đổi của mức sản
lượng quốc dân.
gt = ( Yt - Y(t-1))/Y(t-1) *100%
Trong đó: gt :Tốc độ tăng trưởng của thời kì t
Y :GDP thực tế của thời kì t
Thước đo đó có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi
GDP thực tế lại tăng trưởng chậm.
Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng trưởng kinh tế theo mức
sản lượng bình quân đầu người được tính bằng tổng sản lượng hàng hoá và dịch
vụ được tạo ra trong năm chia cho dân số.
gt(PC) = ( yt - y(t-1))/y(t-1) *100%
Trong đó: gt(PC): Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người
của thời kì t
y : GDP thực tế bình quân đầu người
Khi các nhà kinh tế nghiên cứu tăng trưởng kinh tế, họ quan tâm đến tăng
trưởng của sản lượng thực tế qua một thời kì dài để có thể xác định được các yếu
tố làm tăng GDP thực tế tại mức tự nhiên trong dài hạn.
12
Các nguồn lực của tăng truởng kinh tế: Yếu tố hàng đầu quyết định tăng
trưởng là năng suất. Nhưng các yếu tố quyết định năng suất và do đó tăng truởng
kinh tế là nguồn nhân lực, tích luỹ tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công
nghệ. Các nhân tố đó có thể khác nhiều giữa các nước và một số nước có thể kết
hợp chúng hiệu quả hơn các nước khác.
Các chính sách của chính phủ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
- Chính sách khuyến khích tiết kiệm và đầu tư trong nước.
- Chính sách thu hút đầu tư từ nước ngoài.
- Chính sách về vốn nhân lực.
- Xác định quyền sở hữu tài sản và sự ổn định chính trị.
- Chính sách mở cửa nền kinh tế.
- Chính sách kiểm soát tăng dân số.
- Nghiên cứu và triển khai công nghệ mới.
Tăng trưởng bền vững: Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm
định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự
tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng
tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội,
chính trị, địa lý, văn hóa riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc
gia đó.
Theo Brundtland: "Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những
nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các
thế hệ tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được
tái tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những
hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật.
Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội
hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sình thái mà còn đi vào các nhân tố xã
hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và
giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là
điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái
niệm phát triển bền vững.
Như vậy, khái niệm "Phát triển bền vững" được đề cập trong báo cáo
Brundtlanđ với một nội hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm hoà giải kinh tế
và môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nội
dung khái niệm còn bao hàm những khía cạnh chính trị xã hội, đặc biệt là bình
đẳng xã hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là "tiếng chuông" hay nói cách khác
là "tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại.
2.2.2. Khái niệm phát triển
Hiện nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển. Phát triển kinh
tế được hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế
được xem như quá trình biến đổi cả lượng và chất, nó là sự kết hợp 1 cách chặt
chẽ quá trình hoàn thiện của 2 vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Như
vậy, phát triển phải là 1 quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế
quy định.
Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo 3 tiêu thức:
13
- Sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập
trên 1 đầu người. Nó thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều
kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của 1 quốc gia và thực hiện những mục
tiêu khác của phát triển.
- Sự biến đổi theo đúng xu hướng của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức phản
ánh sự biến đổi về chất. Hiện nay cơ cấu kinh tế thương được thay đổi theo
hướng: thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá; giảm vai trò của ngành nông nghiệp;
thay đổi sản phẩm thương mại; tăng cường ứng dụng vốn con người và vốn tri
thức trong sản xuất; tiến hành thay đổi thể chế. Để phân biệt các giai đoạn phát
triển hay đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, người ta thường dựa
vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế.
- Sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Đây là mục tiêu
cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia. Đó là việc xoá bỏ nghèo
đói, suy dinh duỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến
các dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục…
* Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá trình
phát triển, và là mục tiêu mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn hướng tới.
2.2.3. Khái niệm phát triển bền vững
Theo thời gian, quan niệm về phát triển bền vững ngày càng được hoàn
thiện. Năm 1987, vấn đề về phát triển bền vững được Ngân hàng thế giới (WB)
đề cập lần đầu tiên, theo đó phát triển bền vững là: “…Sự phát triển đáp ứng các
nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các
thế hệ tương lai”. Ngày nay, quan niệm về phát triển bền vững được đề cập một
cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi trường tài nguyên thiên nhiên, yếu tố môi
trường xã hội được đặt ra với ý nghĩa quan trọng. Hội nghị thượng đỉnh thế giới
về phát triển bền vững năm 2002 đã xác định: Phát triển kinh tế bền vững là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát
triển, gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định;
thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên; bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.
Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ quan điểm về phát triển bền
vững trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước tới năm 2010:
“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, gắn sự phát triển kinh tế với giữ
vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng.
2.3. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế
2.3.1. Tổng giá trị sản xuất(GO Gross output)
Tổng giá trị sản xuất (GO) là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất định
(thường là một năm). Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo hai cách.
Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong
toàn bộ nền kinh tế Quốc Dân. Thứ hai, tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm
chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA).
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét