Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp và những giải pháp góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty chè Việt nam

Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình thanh toán các sản phẩm và dịch vụ,
trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ
phần mang lại.
Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trờng, các
mối quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các
hoạt động đó đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn
tiền tệ và khả năng thu hút lợi nhuận.
+ Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nớc ngoài phát sinh
trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu t với giữa doanh nghiệp với các tổ chức
kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trờng gắn liền với chính sách mở cửa, các hoạt
động giữa các doanh nghiệp trong nớc và các tổ chức kinh tế nớc ngoài ngày càng
có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế
mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đa vào sản xuất kinh doanh để
có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.1.2 Bản chất của tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện d ới hình thái
giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu
cầu chung của xã hội.
Hay, tài chính doanh nghiệp là những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc
tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
1.2 / Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp đợc ví nh những tế bào có khả năng tái tạo,
hay còn đợc coi nh cái gốc của nền tài chính. Sự phát triển hay suy thoái của sản
xuất- kinh doanh gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. Vì vậy
vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể
là tiêu cực đối với kinh doanh trớc hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của ngời
quản lý ; sau đó nó còn phụ thuộc vào môi trờng kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế
quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nớc.
Song song với việc chuyển sang nền kinh tế thị trờng, nhà nớc đã hoạch định
hàng loạt chính sách đổi mới nhằm xác lập cơ chế quản lý năng động nh các chính
sách khuyến khích đầu t kinh doanh, mở rộng khuyến khích giao lu vốn. Trong
điều kiện nh vậy, tài chính doanh nghiệp có vai trò sau:
1.2.1/ Tài chính doanh nghiệp- một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu t kinh doanh.
Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trớc hết các doanh nghiệp phải
có một yếu tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh.
Trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp trớc đây, vốn của các doanh nghiệp
nghiệp nhà nớc đợc nhà nớc tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn
không đợc đạt ra nh một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh nghiệp.
Chuyển sang nền kinh tế thị trờng đa thành phần, các doanh nghiệp nhà nớc chỉ
là một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu t phát triển
những ngành nghề mới nhằm thu hút đợc lợi nhuận cao đã trở thành động lực và
là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong
nền kinh tế thị trờng, khi đã có nhu cầu về vốn, thì nảy sinh vấn đề cung ứng vốn.
Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động
khai thác thu hút các nguồn vốn trên thị trờng nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh
doanh và phát triển của mình.
1 2 2/ Tài chíh doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Cũng nh đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu
quả đợc coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện của
nền kinh tế thị trờng, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trớc mọi doanh
nghiệp những chuẩn mực hết sức khe khắt; sản xuất không phải với bất kỳ giá nào.
Trong nền kinh tế thị trờng, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đều đợc phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính, bằng các số liệu của
kế toán và bảng tổng kết tài sản. Với đặc điểm này, ngời cán bộ tài chính có khả
năng phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh để một mặt phải bảo toàn đợc
vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả
năng sinh lời của vốn kinh doanh.
1.2.3/ Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh.
Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trờng các quan hệ tài chính
doanh nghiệp đợc mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ
thống ngân hàng thơng mại, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành
viên góp vốn đầu t liên doanh và những quan hệ tài chính trong nội bộ doanh
nghiệp Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có thể đợc diễn ra khi cả hai bên
cùng có lợi và trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng này, nhà quản lý
có thể sử dụng các công cụ tài chính nh đầu t, xác định lãi suất, tiền lơng, tiền thởng
để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn
nhằm thúc đẩy sự tăng trởng trong hoạt động kinh doanh.
1.2.4/ Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gơng phản ánh trung thực nhất mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Thông qua các chỉ tiêu tài chính
nh: hệ số nợ, hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần vốn có thể
dễ dàng nhận biết chính xác thực trạng tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý doanh
nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựnghệ
thống các chỉ tiêu phân tích tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động
kinh tế của doanh nghiệp.
2./ Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
2.1/ Chức năng huy động và phân phối nguồn vốn.
Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh đợc thì cần phải có vốn
và quyền sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên
cũng cần phảI làm rõ một vấn đề là: Các nguồn vốn đợc lấy ở đâu ? Làm thế nào để
có thể huy động đợc vốn ?
Trớc đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nớc cấp
toàn bộ vốn đầu t xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh.
Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng với sự hoạt động của các doanh
nghiệp trong mọi thành phần kinh tế khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh đã tỏ
ra sự yếu kém của mình. Thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung
và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đa các xí
nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay ? Chính sự bất ổn định này
đã tạo ra một sự cha đợc nhất quán trong việc định hình các nguồn vốn cho các
doanh nghiệp ở nớc ta.
Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể nh thế nào chăng nữa thì mọi doanh nghiệp với
mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lu thông, dịch vụ đều có thể huy
động đợc vốn từ các nguồn sau:
-Vốn do ngân sách nhà nớc cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nớc
đợc xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách
nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn giao đó. Khi mới thành lập nhà nớc hoặc cấp
trên cấp vốn đầu t ban đầu để công ty thực hiện sản xuất kinh doanh phù hợp với
quy mô và ngành nghề. Số vốn này thờng bằng hoặc lớn hơn số vốn pháp định. Sau
quá trình hoạt động nếu thấy cần thiết, nhà nớc sẽ cấp bổ sung vốn cho doanh
nghiệp để phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh.
- Vốn tự bổ sung: là vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm:
+ Phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp
+ Phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế
+ Phần tiền nhợng bán tài sản (nếu có)
-Vốn liên doanh liên kết : đó là sự góp tiền hoặc góp tài sản của các doanh
nghiệp khác để cùng với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Vốn vay: chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài
các loại vốn nói trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động vốn của cán bộ công
nhân viên và doanh nghiệp sẽ trả lãi cho số vốn vay đó theo lãi suất ngân hàng.
Qua đó ta hình dung ra đợc, quá trình thành lập doanh nghiệp cần phải có một l-
ợng vốn đầu t tối thiểu. Đối với doanh nghiệp nhà nớc số vốn này do ngân sách nhà
nớc cấp có thể là 100% hoặc tối thiểu là 51%. Còn đối với các Công ty cổ phần,
Công ty TNHH thì số vốn đầu t ban đầu đợc hình thành từ việc đóng góp vốn hoặc
hùn vốn của các cổ đông dới hình thức cổ phần. Mức vay vốn đợc quy định theo
từng doanh nghiệp.
Để tồn tại và phát triển kinh doanh, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh
nghiệp vẫn phải tiếp tục đầu t trung và dài hạn vì vậy doanh nghiệp có thể huy động
vốn bên trong doanh nghiệp nh vốn tự tài trợ. Nếu nh nguồn tự tài trợ mà nhu cầu
đầu t dài hạn vẫn không đáp ứng đợc thì doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ
bên ngoài nh các hình thức đã nêu ở trên.
Với chức năng tổ chức vốn, tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ thực
hiện việc huy động vốn mà còn phải tiến hành phân phối vốn sao cho với số vốn
pháp định, vốn tự có và các nguồn vốn huy động, doanh nghiệp có thể sử dụng
chúng một cách có hiệu quả. Muốn vậy, trong từng thời kỳ kinh doanh doanh
nghiệp phải xác định đợc nhu cầu về vốn là bao nhiêu và kết cấu nh thế nào là hợp
lý.
2.2/ Chức năng phân phối.
Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu đợc kết quả là việc
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân
phối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
ở nớc ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau,
cho nên quy mô và phơng thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác
nhau. Sau mỗi kỳ kinh doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu đợc bao gồm cả giá vốn
và chi phí phát sinh. Do vậy các doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung
nh sau:
- Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm:
+ Trị giá vốn hàng hoá.
+ Chi phí lu thông và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã đã bỏ ra nh lãi vay
ngân hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu.
+ Khấu hao máy móc.
- Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí đợc gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp.
Phần lợi nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nớc dới hình thức thuế,
phần còn lại tuỳ thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi
liên doanh, trả lợi tức cổ phần, trích lập các quỹ doanh nghiệp.
2.3 / Chức năng giám đốc.
Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc
bằng đồng tiền với việc sử dụng chức năng thớc đo giá trịvà phơng tiện thanh toán
của tiền tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực hiện chức năng phân
phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc
phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ.
Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thờng
xuyên vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính
nhằm phát hiện những u điểm để phát huy, tồn tại để khác phục.
Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên
tầm vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản
xuất mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không
chỉ phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực
tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm nghặt mọi hoạt động tài chính.
Nội dung giám đốc tài chính là giám đốc sự vận động và chu chuyển của nguồn vốn
tiền tệ với hiệu quả sử dụng vốn, giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch,
các định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ,
quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các chính sách về tài chính.
Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu quả việc
giám đốc tài chính cần phải thờng xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài
chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh doanh.
Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối u nhằm làm lành mạnh tình
hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II/ Khái niệm và ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp.
1/ Khái niệm và mục đích phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.1/ Khái niệm.
Trớc hết ta tìm hiểu xem phân tích nh thế nào ?
Phân tích trong lĩnh vực tự nhiên đợc hiểu là sự chia nhỏ sự vật hiện tợng
trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tợng
đó nh phân tích các chất hoá học bằng những phản ứng, phân tích các vi sinh
vật bằng kính hiển vi.
Còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tợng cần phân tích chỉ tồn tại bằng
những khái niệm trừu tợng. Do đó việc phân tích phải bằng những phơng pháp trừu
tợng. C Mác đã chỉ ra rằng:
" Khi phân tích các hình thái kinh tế xã hội thì không thể sử dụng hoặc kính
hiển vi, hoặc những phản ứng hoá học. Lực lợng của trừu tợng phải thay thế cái
này hoặc cái kia".
(Mác- Ănghen toàn tập, tập 23- NXB " Tác phẩm chính trị" Matscova 1951 trang 6).
Phân tích kinh doanh là việc phân chia các hiện tợng, các quá trình và các kết
quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng các phơng pháp
liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính quy luật và xu hớng phát
triềncủa các hiện tợng nghiên cứu. Phân tích kinh doanh gắn liền với mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của con ngời. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất kinh doanh
cha phát triển, yêu cầu thông tin cho quản lý cha nhiều, cha phức tạp, công việc
phân tích cũng đợc tiến hành chỉ là những phép tính cộng trừ giản đơn. Khi nền
kinh tế càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý nền kinh tế quốc dân không ngừng
tăng lên. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và phức tạp, phân
tích kinh doanh đợc hình thành và ngày càng hoàn thiện với hệ thống lý luận độc
lập. Quá trình đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển các
bộ môn khoa học. F Ănghen đã chỉ rõ:
"Nếu một hình thái vận động là do một hình thái vận động khác phát triển
lên những phản ánh của nó, tức là những ngành khoa học khác cũng phải từ
ngành này phát triển ra một ngành khác một cách tất yếu".
( F Ănghen : Phơng pháp biện chứng tự nhiên NXB Sự thật 1963 trang 401-402).
Là một môn khoa học độc lập, phân tích kinh doanh có đối tợng nghiên cứu
riêng. Nói chung, lĩnh vực nghiên cứu của phân tích kinh doanh không ngoài các
hoạt động sản xuất kinh doanh nh là một hiện tợng kinh tế, xã hội đặc biệt: Để phân
chia tổng hợp và đánh giá các hiện tợng của hoạt động kinh doanh, đối tợng nghiên
cứu của phân tích kinh doanh là những kết quả kinh doanh cụ thể, đợc thể hiện bằng
các chỉ tiêu kinh tế, với sự tác động của các tác nhân kinh tế.
Kết quả kinh doanh thuộc đối tợng phân tích có thể là kết quả riêng biệt của từng
khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh nh mua hàng, bán hàng, sản xuất
ra hàng hoá, hoặc có thể là kết quả tổng hợp của cả một quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Đó là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp.
Vậy thế nào là phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ? Và mục đích
của việc phân tích này ra sao ?
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, ph ơng
pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin
khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho ng ời sử dụng thông tin đ a ra các quyết định tài
chính, quyết định quản lý phù hợp.
1.2/ Mục đích.
Nh chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thể
tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái
thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành
các mục tiêu- biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh
nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết vĩ mô của
nhà nớc, các doanh nghiệp đều bình đẳng trớc pháp luật trong kinh doanh. Mỗi
doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tợng quan tâm đến tình hình tài chính của mình
nh các nhà đầu t, nhà cho vay, nhà cung cấp .Mỗi đối tợng này quan tâm đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ
đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán và mức lợi nhuận tối đa. Bởi vậy phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp phải đạt đợc các mục tiêu sau:
-Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin hữu ích cho
các nhà đầu t, các chủ nợ và những ngời sử dụng khác để họ có thể ra các quyết
định về đầu t, tín dụng và các quyết định tơng tự. Thông tin phải dễ hiểu đối với
những ngời có một trình độ tơng đối về kinh doanh và về các hoạt động kinh tế mà
muốn nghiên cứu các thông tin này.
-Phân tích tình hình tài chính cũng nhằm cung cấp thông tin quan trọng nhất cho
chủ doanh nghiệp, các nhà đầu t, các chủ nợ và những ngời sử dụng khác đánh giá
số lợng, thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền từ cổ tức hoặc tiền lãi. Vì
các dòng tiền của các nhà đầu t liên quan với các dòng tiền của doanh nghiệp nên
quá trình phân tích phải cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá số lợng, thời gian
và rủi ro của các dòng tiền thu thuần dự kiến của doanh nghiệp.
-Phân tích tình hình tài chính cũng phải cung cấp tin về các nguồn lực kinh tế,
vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các tình huống làm biến
đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó cho biết
thêm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các nguồn lực này và các tác động của
những nghiệp vụ kinh tế, giúp cho chủ doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình
phát triển doanh nghiệp trong tơng lai.
Qua đó cho thấy, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá trình kiểm
tra, đối chiếu số liệu, so sánh số liệu về tài chính thực có của doanh nghiệp với quá
khứ để định hớng trong tơng lai. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu
trong công tác quản lý doanh nghiệp và tìm ra các biện pháp sát thực để tăng cờng
các hoạt động kinh tế và còn là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc dự đoán, dự báo
xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2/ ý nghĩa của phân tích tình hình tài chính.
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hởng đến tài chính của
doanh nghiệp. Ngợc lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy
hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tình
hình tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ doanh nghiệp và các đối
tợng bên ngoài có liên quan đến tài chính của doanh nghiệp.
2.1/ Đối với nhà quản trị doanh nghiệp.
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp đợc gọi là phân tích tài
chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân tích ngoài doanh
nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà phân
tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể phân tích tài chính tốt
nhất. Vì vậy nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm đến nhiều mục tiêu khác
nhau nh tạo công ăn việc làm cho ngời lao động, nâng cao chất lợng sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ, hạ chi phí thấp nhất và bảo vệ môi trờng. Doanh nghiệp chỉ có thể
đạt đợc mục tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thanh toán đợc nợ.
Nh vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin nhằm thực
hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua để tiến hành cân
đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của
doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hớng các quyết định của ban giám đốc tài chính,
quyết định đầu t, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần.
2.2/ Đối với các nhà đầu t .
Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng
thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều kiện tài chính, tình
hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của doanh nghiệp. Các nhà
đầu t còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác quản lý. Những điều đó
tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu t.
2.3 / Đối với các nhà cho vay.
Mối quan tâm của họ hớng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Qua việc
phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú ý tới số lợng tiền và
các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so sánh đợc và biết đ-
ợc khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Giả sử chúng ta đặt mình vào trờng hợp là ngời cho vay thì điều đầutiên chúng
ta chú ý cũng sẽ là số vốn chủ sở hữu, nếu nh ta thấy không chắc chắn khoản cho
vay của mình sẽ đựoc thanh toán thì trong trờng hợp doanh nghiệp đó gặp rủi ro sẽ
không có số vốn bảo hiểm cho họ. Đồng thời ta cũng quan tâm đến khả năng sinh lời
của doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay.
2.4 / Đối với cơ quan nhà n ớc và ng ời làm công.
Đối với cơ quan quản lý nhà nớc, qua việc phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp, sẽ đánh giá đợc năng lực lãnh đạo của ban giám đốc, từ đó đa ra các quyết
định đầu t bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nớc nữa hay không.
Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu t ngời lao động có nhu cầu thông tin
cơ bản giống họ bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng
hiện tại và tơng lai của họ.
Sơ đồ 1: Nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tợng sử dụng
khác nhau.
Đối tợng sử
dụng
thông tin
Cần quyết
định cho các
mục tiêu
Yếu tố cần dự đoán cho
tơng lai
Các câu hỏi trả lời nhận đợc từ
các thông tin có dạng câu hỏi
Nhà quản
trị doanh
nghiệp
Điều hành
hoạt động sản
xuất kinh
doanh
-Lập kế hoạch cho tơng lai.
-Đầu t dài hạn
-Chiến lợc sản phẩm và
thị trờng
-Chọn phơng án nào
sẽ có hiệu quả cao
nhất ?
-Nên huy động
nguồn đầu t nào ?
Nhà đầu t Có nên đầu t
vào doanh
nghiệp hay
không ?
-Giá trị đầu t nào sẽ thu đ-
ợc trong tơng lai.
-Các lợi ích khác có thể
thu đợc.
-Năng lực của doanh
nghiệp trong điều
kiện kinh doanh và
huy động vốn đầu t
nh thế nào ?
Nhà cho
vay
Có nên cho
doanh nghiệp
vay vốn hay
không ?
-Doanh nghiệp có khả
năng trả nợ theo đúng hợp
đồng hay không ?
-Các lợi ích khác đối với
các nhà cho vay
-Tình hình công nợ
của doanh nghiệp.
-Lợi tức có đợc chủ
yếu từ hoạt động nào
?
-Tình hình và khả
năng tăng trởng của
doanh nghiệp.
Cơ quan
nhà nớc và
ngời làm
công
Các khoản
đóng góp cho
nhà nớc
Có nên tiếp
tục hợp đồng
hay không
-Hoạt động của doanh
nghiệp có thích hợp và
hợp pháp không?
-Doanh nghiệp có thể tăng
thêm thu nhập cho ngời
làm công không?
- Có thể có biến
động gì về vốn và
thu nhập trong tơng
lai ?

Qua sơ đồ trên cho thấy doanh nghiệp là một tế bào của một nền kinh tế nên
hoạt động của chúng phản ánh tình hình phát triển hay suy thoái của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Qua đó sẽ giúp cho các nhà quản lý tài chính ở tầm vĩ mô thấy đ-
ợc thực trạng của nền kinh tế quốc gia, xây dựng kế hoạch và các chính sách phù
hợp nhằm làm cho tình hình tài chính doanh nghiệp nói riêng và tình hình tài chính
quốc gia nói chung ngày càng có sự tăng trởng.
Kết luận: Phân tích tình hình tài chính có thể ứng dụng theo nhiều chiều khác
nhau nh với mục đích tác nghiệp ( chuẩn bị các quyết định nội bộ) và với mục đích
thông tin (trong hoặc ngoài doanh nghiệp ). Việc thờng xuyên tiến hành phân tích
tình hình tài chính sẽ giúp cho ngời sử dụng thấy đợc thực trạng hoạt động tài
chính, từ đó xác định đợc nguyên nhân và mức độ ảnh hởng đến từng hoạt động
kinh doanh. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định cần
thiết để nâng cao chất lợng công tác quản lý kinh doanh /
Qua đó thấy đợc ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp mà công việc
này ngày càng đợc áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý,
các tổ chức công cộng. Nhất là, thị trờng vốn ngày càng phát triển đã tạo nhiều cơ
hội để phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét