Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Quyết định trong quản trị doanh nghiệp

sẽ tìm ra giải pháp thích hợp để cải tạo, biến đổi, thích nghi và tồn tại chung với
chúng một cách có lợi nhất.
3.2. Những yếu tố chung của lý thuyết quyết định
3.2.1. Mục tiêu của quyết định
Khác với các loài động vật trong tự nhiên mọi hoạt động con người (bình
thường chứ không phải là những người mất trí) đều cần nhằm vào một hay một số
mục tiêu nào đó. Các hoạt động về quyết định trong quản trị cũng vậy, muốn không
bị lạc đường, mất phương hướng đèu cần phải xác định rõ mục tiêu nhằm giải quyết
những vấn đề gì? Thông thường mục tiêu được hiểu là cái đích để nhằm vào hay
cần đạt tới để hoàn thành nhiệm vụ. Như vậy mục tiêu của các quyết định là cái đích
cần đến trong các quyết định về quản trị. Trong thực tế chúng ta cũng gặp thuật ngữ
“mục đích” của các quyết định. Vậy mục đích là gì? Và quan hệ của nó với mục tiêu
ra sao? Theo quan điểm của tôi thì chúng ta nên thừa nhận quan điểm “mục đích” là
cái đích cuối cùng cần đạt tới, còn mục tiêu là cái đích cụ thể cuối cùng cần đạt tới.
Sự cần thiết khách quan của mục tiêu là ở chỗ không thể ra quyết định quản
lý mà không có mục tiêu. Vì mục tiêu là lĩnh vực hoạt động tất yếu, là cơ sở, là
điểm xuất phát của mọi hoạt động quản trị khác.
Vai trò quan trọng của mục tiêu trong việc ra quyết định quản trị là ở chỗ nó
có tính định hướng cho các hoạt động, là cơ sở để đánh giá các phương án, các
quyết định và là căn cứ để đề ra các quyết định về quản trị.
Việc xác định đúng đắn mục tiêu trong việc ra quyết định quản trị là một yêu
cầu hết sức quan trọng. Như vậy cần phải giải quyết vấn đề xác định mục tiêu như
thế nào là khoa học nhất. Muốn làm được việc này phải xuất phát từ cơ sở khoa học
của nó. Sau đây là những cơ sở khoa học chủ yếu:
- Những vấn đề cốt lõi cần giải quyết khi phải ra quyết định là gì?
- Đòi hỏi của việc sử dụng các quy luật khách quan trong lĩnh vực ra quyết
định và thực hiện các quyết định về quản trị.
- Khả năng tổ chức thực hiện các quyết định của những người thừa hành.
Những yêu cầu cơ bản đối với các mục tiêu ở đây thường là:
- Phải rõ ràng
- Có tính khả thi
Trang 5
- Có thể được kiểm soát được.
- Phải phù hợp với đòi hỏi của các quy luật khách quan.
- Phải nhằm giải quyết những vấn đề then chốt quan trọng.
Hệ thống mục tiêu: trước khi ra quyết định cần phải xem xét toàn diện những
vấn đề có liên quan để đề ra các mục tiêu có tính hệ thống khoa học là một đòi hỏi
khách quan đối với các nhà quản trị khi đưa ra các quyết định về quản trị.
Các bước xác định mục tiêu trong việc ra quyết định được mô tả theo sơ đồ
sau:
3.2.2. Những chiến lược
Chiến lược kinh doanh là phương thức cụ thể hóa cách thực hiện mục tiêu, là
cơ sở quan trọng trong lĩnh vực ra quyết định quan trọng.
Chức năng của chiến lược là:
- Định hướng chiến lược cho hoạt động của tổ chức.
- Bảo đảm thế chủ động khi thực hiện các mục tiêu.
- Huy động, khai thác và tập trung sử dụng mọi nguồn lực trong cơ sở.
- Đảm bảo tính thích nghi với mọi điều kiện của môi trường tác động đến
quyết định.
- Phòng ngừa chiến lược rủi ro và nguy cơ nếu nó có khả năng xuất hiện và
tận dụng mọi cơ hội, thời vận trong tương lai.
Nội dung của chiến lược phụ thuộc vào mục tiêu và nội dung của các quyết
định.
2.3.2. Tình huống hậu quả
Những sự kiện xẩy ra ngoài sự kiểm soát của người ra quyết định thường gọi
là những hậu quả hay những tình huống tự nhiên và sự tồn tại của chúng tạo nên
nhiều khó khăn hơn thuận lợi trong điều kiện bất định.
Trang 6
Ý thức vấn đề Thu thập thông tin
Lựa chọn và quyết
định mục tiêu
Xác định mục tiêu
dự kiến
Để đưa ra những quyết định sáng suốt các nhà quản trị cần đưa ra những giả
thiết về những tình huống có thể xẩy ra đối với những quyết định của mình từ
những giả thiết về các tình huống có thể xảy ra, để đưa ra các biện háp khắc phục
những hậu quả xấu có thể xảy ra và phát triển những mặt tích cực của hậu quả
2.2.4. Xác suất của tình huống hậu quả
Tính bất định gắn với những hậu quả hay tính huống tự nhiên sẽ xuất hiện
một cách thực sự.
Những nhà quản trị cần đặt ra những giả thiết về những tình huống bất định
có thể xẩy ra. Qua việc thu thập các thông tin về các yếu tố của môi trường có tác
động đến quyết định, từ những thông tin đó cần xử lý các thông tin bằng các phân
tích định tính và định lượng rồi tính xác suất rủi ro của tình huống hậu quả có thể
xảy ra.
2.2.5. Những kết quả hay những kết toán
Những quyết định đưa ra có khoa học thì quyết định đó phải dựa trên cơ sở
của một bản kế hoạch. Bản kế hoạch đó phải đặt ra các mục tiêu cần đạt được. Mục
tiêu của các nhà chính trị là xã hội, còn mục iêu của các doanh nhân đặt lên hàng
đầu đó là lợi nhuận.
Đo lường, tính toán lợi nhuận hay giá trị của những hành động khác nhau, ta
có được những kết quả hay những kết toán. Trong tính toán cần phải tính doanh thu
sẽ thu được so với mức chi phí bỏ ra. Chi phí có thể có hiệu quả hoặc không có hiệu
quả.
3. XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ XÁC SUẤT LỢI NHUẬN
Dự đoán trong điều kiện bất định và xác định để đưa ra những quyết định
3.1. Tính xác suất của hành động (sự kiện) của một quyết định
Trong hoạt động kinh doanh lợi nhuận thường đi với rủi ro. Những ngành có
lợi nhuận lớn thì mức rủi ro về thua lỗ lại cao và ngược lại thì những ngành đem lại
lợi nhuận thấp thì rủi ro về thua lỗ thường lại thấp. Điều này dẫn đến nhà quản trị
trước khi ra quyết định cần phải tính toán mức độ xác suất thành công, có đủ dũng
cảm để đưa ra các quyết định để đạt hiệu quả tối ưu.
Sau đây là một thí dụ: Người bán báo mua một tờ báo là 800 đồng và bán nó
với giá 1.000đ. Bất cứ tờ bào nào không được bán trong ngày đều hoàn toàn không
Trang 7
còn giá trị đối với anh ta. Vấn đề đặt ra với người bán báo là xác định số báo mua
tối ưu trong ngày.
Người bán báo đã thực hiện ghi chép tình hình bán hàng của anh ta trong 100
ngày qua bảng 1 như sau:
Số lượng báo bán
hàng ngày (tờ)
Số ngày bán báo
mức tương ứng
Xác suất bán báo của
từng mức bán (lần)
300 15 0,15
400 20 0,2
500 45 0,45
600 15 0,1
700 5 0,005
10 1
Như vậy, để đạt được quyết định tối ưu anh ta sẽ quyết định mua 500 tờ báo
vào ngày mai để bán lại. Bởi vì xác suất anh ta bán được hết 500 tờ báo là 0,45 là
xác suất cao nhất đối với mức báo mà anh ta đặt khác có mức xác suất bánhết hàng
là thấp hơn.
3.2. Trong mỗi quyết định đưa ra phải đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thay
cho tối thiểu hóa thiệt hại.
3.2.1. Trước mỗi sự thay đổi của môi trường cần có những quyết định hợp lý để
thích nghi với môi trường.
Cách đây hơn một năm, khi cuộc chiến tranh Mỹ - Irắc nổ ra. Giá của các
nguyên liệu đầu vào tăng, một số doanh nghiệp chịu sức ép của thương trường.
Giá một số nguyên liệu đầu vào quan trọng như xăng, dầu, điện, ga, sắt thép,
giá các dịch vụ sinh hoạt tăng đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhà sản xuất.
Khi các Nhà nước điều chỉnh giá xăng dầu các doanh nghiệp đã phải chuẩn
bị tâm lý về việc giá xăng dầu tăng sẽ làm tăng giá thành các sản phẩm, dịch vụ. Cụ
thể, giá thành vận tải đường sông tăng 0,7%; đường biển tăng 1,2%; xi măng tăng từ
0,73 đến 1,1% tùy loại; thép tăng 0,35%; giấy tăng 2,4%; cá xa bờ tăng 100đồng/kg
và lúa đồng bằng sông Cửu Long tăng 3 đ/kg. Điều này có nghĩa là khi đó chiến
tranh Mỹ - Irắc đang xẩy ra ác liệt. Giá dầu thô trên thị trường thế giới đã tăng lên
đến 38 USD/thùng, nếu chiến tranh kéo dài thì giá dầu thô sẽ tăng vọt.
Trang 8
Chịu tác đông của giá dầu, giá nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu gốc hóa dầu
tăng vọt. Giá các loại nhựa như PEHD, PELD, PP, PVC chủ yếu dùng trong sản
xuất nhựa gia dụng, bao bì nhựa công nghiệp đang đồng loạt tăng giá với mức
chóng mặt. Giá nguyên liệu nhập khẩu PEAB từ 670 USD/tấn đã tăng lên 750 USD/
tấn, PELD từ 700 lên 770 USD/tấn, PP từ 800 lên 900 USD/tấn, PVC từ 550
USD/tấn lên 750 USD/tấn. Và không chỉ có hạt nhựa, nhiều loại nguyên liệu có gốc
hóa dầu khác cũng tăng giá. Các loại dung môi chiết xuất từ xăng dầu phục vụ
ngành sản xuất sơn cũng đang tăng lên từ 30 đến 40% so với trước, mà giá dung
môi chiếm khoảng 30% giá thành sản phẩm. Trước sép ép phải tăng giá sản phẩm
do giá đầu vào sẽ tăng lên do cuộc chiến tranh Mỹ - Irắc có thể kéo dài. Nhưng theo
phân định tình hình thì xác suất cuộc chiến tranh Mỹ - Irắc kéo dài là rất thấp, bởi vì
tiềm lực quân lực của Mỹ rất mạnh so với Irắc, cuộc chiến tranh sẽ sớm kết thức,
giá dầu mỏ sẽ sớm bình ổn trở lại như cũ.
Có một số doanh nghiệp đã quyết định tăng giá thành làm giảm năng lực
cạnh tranh với hàng hóa từ nước ngoài. Một số doanh nghiệp đã quyết định giảm
sản lượng sản xuất xuống để hạn chế mức thiệt hại. Một số doanh nghiệp đã hủy bỏ
các đơn đặt hàng từ nước ngoài, khi các đơn đặt hàng này được đặt hợp đồng cách
đây vài tháng. Những doanh nghiệp này đã làm mất dần thị trường của mình.
Nhưng có một số doanh nghiệp quyết định giữ nguyên giá cũ để tăng khả
năng cạnh tranh, không hủy bỏ, từ chối các đơn đặt hàng xuất khẩu với giá cách thời
điểm đó vài tháng, chấp nhận những thiệt hại trước mắt. Khi cuộc chiến tranh Mỹ -
Irắc sớm kết thúc, giá dầu mỏ bình ổn trở lại, giá các nguyên liệu đầu vào giảm trở
lại. Những doanh nghiệp này vẫn giữ được thị trường trong và ngoài nước, mở rộng
sản xuất để tối đa hóa lợi nhuận. Những doanh nghiệp này đã làm cho kim ngạch
xuất nhập khẩu của nước ta ở mức cao. Nước ta vẫn được xếp là nước có tiềm năng
tăng trưởng cao về kim ngạch trong năm 2003.
3.2.2. Trong hoạt động thương mại
Quyết ra quyết định phải tính trước mức tối đa hóa lợi nhuận thay cho sự tối
thiểu hóa thiệt hại.
Trong hoạt động thương mại, những hàng hóa tồn kho đang thường gây ra
thiệt hại. Do chi phí bảo quản, lưu kho cao, hàng hóa bị hư hỏng, số vòng quay của
Trang 9
vốn chậm. Nhưng cái đòi hỏi nhà quản trị phải có quyết định đúng đắn về số lượng
hàng hóa để đạt được mức lợi nhuận tối đa thay cho tối thiểu hóa thiệt hại nói trên.
Quyết định đó phải có cơ sở khoa học thì mới đem lại hiệu quả. Sau đây là một thí
dụ điển hình. Người bán rau quả mua ra tươi với giá 35.000đ một giỏ và bán lại với
giá 50.000đ một giỏ. Ta giả định sản phẩm sẽ không còn giá trị nếu không bán được
vào ngày đầu tiên. nếu người mua ngày mai yêu cầu số giỏ nho nhiều hơn mức
người bán dự trữ thì lợi nhuận sẽ bị mất theo mỗi giỏ mà không có bán là 15.000đ
(= 50.000 - 35.000). Mặt khác, cũng phải tính chi phí do thiệt hại do dự trữ quả giỏ
nho cho một ngày nào đó. Nếu người bán dự trữ 13 giỏ nhưng chỉ bán được 10 giỏ
thì mức lợi nhuận của anh ta là 150.000đ (= 15.000 x 10 giỏ). Nhưng lợi nhuận phải
đi là 105.000đ. Đó là chi phí của 3 giỏ nho không bán được và không còn giá trị.
Quan sát 100 ngày bán hàng cho những thông tin trong bảng sau:
Bảng 11.2: Tình hình bán nho trong 10 ngày
Số giỏ bán được
trong 1 ngày
Số ngày bán được
hàng mức tương ứng
Xác suất bán hàng ở
mức tương đương
10 15 0,15
11 20 0,20
12 40 0,40
13 25 0,25
100 100
Xác suất dùng để tính lợi nhuận
* Lợi nhuận có điều kiện
Bảng 11.3: Bảng lợi nhuận có điều kiện
Khả năng nhu cầu
về nho (giỏ)
Mức dự trữ có thể được
10 giỏ 11 giỏ 12 giỏ 13 giỏ
10 150.000 1.150.000 30.000 45.000
11 150.000 165.000 130.000 95.000
12 150.000 165.000 180.000 145.000
23 150.000 165.000 18.000 195.000
Trình bày mức lợi nhuận tạo ra do kết hợp giữa cung và cầu. Nó có thể
dương hoặc âm. Nó có điều kiện ở chỗ một mức lợi nhuận nhất định thu được là do
thực hiện mức dự trữ (10, 11, 12, 13 giỏ).
Trang 10
Bảng lợi nhuận có điều kiện như vậy không ra cho người bán bao nhiêu giỉo
nho anh ta cần phải dự trữ mỗi ngày để tối đa mức lợi nhuận thu được. Nó chỉ nhấn
mạnh đến kết quả tương ứng giữa số lượng giỏ dự trữ nhất định (với số lượng giỏ
được bán nhất định).
* Lợi nhuận dự đoán
Bảng 11.4: Lợi nhuận dự đoán trường hợp chỉ dự trữ 10 giỏ
Mức nhu cầu thị
trường về nho (giỏ)
Lợi nhuận có
điều kiện
Xác suất bán hàng theo
mức nhu cầu thị trường
Lợi nhuận
dự đoán
1 2 3 (4) = (3)x(2)
10 150.000 0,15 22.500
11 150.000 0,20 30.000
12 150.000 0,40 60.000
13 150.000 0,25 37.500
100 150.000
Bảng 11.5: Lợi nhuận dự đoán trường hợp dự trữ 11 giỏ
Mức nhu cầu thị
trường về nho (giỏ)
Lợi nhuận có
điều kiện
Xác suất bán hàng theo
mức nhu cầu thị trường
Lợi nhuận
dự đoán
1 2 3 (4) = (3)x(2)
10 115.000 0,15 17.250
11 165.000 0,20 33.000
12 165.000 0,40 66.000
13 165.000 0,25 41.250
100 15.700
Trang 11
Bảng 11.6: Lợi nhuận dự đoán trong trường hợp dữ trữ 12 giỏ
Mức nhu cầu thị
trường về nho (giỏ)
Lợi nhuận có
điều kiện
Xác suất bán hàng theo
mức nhu cầu thị trường
Lợi nhuận
dự đoán
1 2 3 (4) = (3)x(2)
10 80.000 0,15 12.000
11 130.000 0,20 26.000
12 180.000 0,40 72.000
13 180.000 0,25 450.000
100 155.000
Bảng 11.6: Lợi nhuận dự đoán trong trường hợp dữ trữ 13 giỏ
Mức nhu cầu thị
trường về nho (giỏ)
Lợi nhuận có
điều kiện
Xác suất bán hàng theo
mức nhu cầu thị trường
Lợi nhuận
dự đoán
1 2 3 (4) = (3)x(2)
10 45.000 0,15 6.750
11 95.000 0,20 19.000
12 145.000 0,40 58.000
13 195.000 0,25 48.750
100 132.500
Ta vừa mới tính được lợi nhuận dự đoán của mỗi hành động thuộc bốn hành
động dự trữ một cách rõ ràng. Các mức này là:
- Nếu 10 giỏ được dự trữ mỗi ngày, lợi nhuận dự đóan hàng ngày là
150.000đ
- Nếu 11 giỏ được dự trữ mỗi ngày, lợi nhuận dự đoán hàng ngày là
157.500đ.
- Nếu 12 giỏ được dự trữ mỗi ngày, lợi nhuận dự đoán hàng ngày là
155.000đ.
- Nếu 13 giỏ được dự trữ mỗi ngày, lợi nhuận dự đoán hàng ngày là
132.500đ.
Mức dự trữ tối ưu là mức sẽ cho lợi nhuận dự đoán lớn nhất. Mức lợi nhuận
bình quân ngày lớn nhất.
3.2.3. Mức lợi nhuận dự đoán do có thông tin hoàn hảo.
Từ ví dụ trên, trong trường hợp có thông tin hoàn hảo, người ta có thể tính
lợi nhuận dự đoán trong điều kiện xác định kết quả trình bày trong bảng 117
Bảng 11.7
Trang 12
Mức nhu cầu thị
trường về nho (giỏ)
Lợi nhuận có
điều kiện
Xác suất bán hàng theo
mức nhu cầu thị trường
Lợi nhuận
dự đoán
1 2 3 (4) = (3)x(2)
10 150.000 0,15 22.500
11 165.000 0,20 33.000
12 180.000 0,40 72.000
13 195.000 0,25 48.750
100 176.250
Giả sử người bán hàng nho có thể có được kết quả dự đoán rất chính xác về
tương lai. Vậy, điều này có ý nghĩa gì đó với anh ta. Anh ta phải so sánh giữa khoản
thu và khoản chi phí với thông tin trên để có lợi nhuận cao.
Người bán hàng trong thí dụ trên có thể thu khoản lợi nhuận trung bình ngày
là 176.250đ nên anh ta có được thông tin hoàn hảo về tương lai, lợi nhuận dự đoán
thu hàng ngày lớn nhất mà anh ta có thể thu được khi không có thông tin hoàn hảo là
157.500đ chênh lệch 18.700đ là mức tối đa ước tính mà người bán hàng sẵn sàng
chi trả mỗi ngày để mua những thông tin hoàn hảo. Vì đó là mức tối đa anh ta có thể
thu thêm do sử dụng thông tin hoàn hảo. Chênh lệch này gọi là giá trị dự đoán của
thông tin hoàn hảo.
4. PHÂN PHỐI LIÊN TỤC TRONG LÝ THUYẾT QUYẾT ĐỊNH, PHÂN
TÍCH BIÊN
Phân tích biên là công cụ tính toán xem khi người bán hàng bổ sung thêm
một đơn vị hàng hóa thì khả năng thiệt hại là bao nhiêu và kết quả thu được là bao
nhieu.
Khi một đơn vị hàng hóa bổ sung được đem bán thì hai trường hợp có thể
xẩy ra: đơn vị hàng hóa này bán được hoặc không bán được. Tổng xác suất hai
trường hợp này phải bằng 1.
Trong thí dụ trước về người bán nho, lợi nhuận biên do bán một đơn vị bổ
sung là 15.000đ. Vấn đề này được phản ánh như sau: Nếu ta dự trữ 10 giỏ hàng mỗi
ngày và nhu cầu hàng ngày lại từ 10 giỏ trở lên thì lợi nhuận có điều kiện là
150.000đ mỗi ngày. Bây giờ ta quyết định dự trữ 11 đơn vị mỗi ngày. Nếu đơn vị 11
được bán đi (khi đó nhu cầu là 11, 12, 13 đơn vị) thì lợi nhuận có điều kiện tăng đến
mức 165.000đ mỗi ngày.
Trang 13
Ta cũng cần phải xem xét lợi nhuận bị ảnh hưởng như thế nào do dự trữ thêm
một đơn vị hàng hóa mà không bán được. Trường hợp này gọi là giảm lợi nhuận có
điều kiện. Mức lợi nhuận bị giảm gọi là thiêt hai bên hoặc ML. Bảng sau phản ánh
thiệt hại biên
Lợi nhuận có điều kiện
Khả năng nhu
cầu về nho (giỏ)
Xác suất bán hàng theo các
mức nhu cầu thị trường
Mức dự trữ có thể được
10 giỏ 11 giỏ 12 giỏ 13 giỏ
10 0,15 150.000 1.150.000 30.000 45.000
11 0,20 150.000 165.000 130.000 95.000
12 0,40 150.000 165.000 180.000 145.000
23 0,25 150.000 165.000 180.000 195.000
100
Ta quyết định dự trữ 1 đơn vị. Nếu đơn vị thứ 1 (đơn vị biên) không bán
được thì lợi nhuận có điều kiện bị giẩm xuống còn 115.000đ
Số đơn vị được dự trữ tăng thêm với điều kiện lợi nhuận biên dự đoán do
tăng thêm mỗi đơn vị này phải lớn hơn thiệt hại biên dự đoán do tăng thêm một đơn
vị. Đây là phương pháp khoa học để cho nhà quản trị quyết định số lượng hàng tối
ưu cần nhập để đem lại hiệu quả cao nhất.
4.2. Sử dụng phân phối xác suất chuẩn.
Giả thuyết có số liệu ghi chép tình hình bán hàng hàng ngày, được coi là tuân
theo phân phối chuẩn sau đây:
- Trung bình bán hàng ngày: 60 đơn vị
- Độ lệch tiêu chuẩn của phân phối
- Tình hình bán hàng ngày trước đây: 10 đơn vị.
- Chi phí cho một đơn vị: 20.000 đơn vị
- Giá bán cho một đơn vị: 32.000
- Giá trị tận dụng 1 đơn vị không bán được sau ngày đầu trước tiên ta phải
tính xác suất đòi hỏi tối thiểu P
*
P
*
= =
= = 0,6
Ta có thể biểu diễn xác suất này theo đường cong phân phối chuẩn
Trang 14
0
0.35 độ
lệch
chuẩn
60
120

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét