Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay

GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
hàng thương mại với vai trò là người huy động vốn rồi đem cho vay.
Còn những trung gian tài chính, thực hiện việc kinh doanh chuyển vốn
từ người dư vốn sang người cần vốn, bằng việc đặt một lãi suất cao
hơn cho các món cho vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để
thu lợi nhuận. Tuy nhiên, thông qua hoạt động của các trung gian tài
chính, lãi suất hay còn gọi là giá của tiền tệ được hình thành trên cơ sở
cung cầu của thị trường và nhờ đó, các hoạt động tài chính gián tiếp
được vận hành trên thị trường tài chính.
Như vậy, các định chế tài chính được hình thành và hoạt động có
hiệu quả cũng góp phần tạo nên một thị trường tài chính trong nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Thị trường tài chính được hình thành đã thực
hiện chức năng quan trọng của mình, là tập trung các khoản tiền tiết
kiệm tạo thành nguồn vốn lớn để tài trợ các dự án đầu tư trong nền
kinh tế xã hội.
3. Chức năng của thị trường tài chính:
Chức năng đầu tiên, cũng là chức năng quan trọng nhất của thị
trường tài chính là khơi thông các nguồn vốn và dẫn vốn để đáp ứng
các nhu cầu của nền kinh tế xã hội. Để thực hiện được chức năng này,
thị trường phải tạo ra các kênh huy động vốn từ nơi thừa, như: cá
nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tổ chức đoàn thể xã hội, Chính
phủ, … ở trong và ngoài nước để chuyển sang các nhà đầu tư thiếu
vốn, như: các đơn vị kinh tế, Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình, …
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 5
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
Chức năng thứ hai của thị trường tài chính là kích thích tiết kiệm
và đầu tư. Thị trường tạo ra sân chơi, để những người có tiền nhàn rỗi
có cơ hội đầu tư như nhau và được tự do tham gia vào thị trường để
tìm kiếm những nơi đầu tư có suất sinh lợi cao nhất, tạo thành thói
quen tích lũy tiền tệ một cách thường xuyên hơn, là một nguồn đầu
vào không thể thiếu của thị trường. Nếu thị trường không kích thích
được người dân tích lũy và tham gia vào thị trường như là một kênh
dẫn vốn cho nền kinh tế thì thị trường đó sẽ không thể hoạt động tốt.
Đồng thời, nhà đầu tư trên thị trường khi tìm kiếm nguồn vốn tài trợ
cho các hoạt động đầu tư phải nhận thức được việc sử dụng vốn sao
cho có hiệu quả nhất, có hiệu suất sử dụng đồng vốn cao nhất để bảo
toàn vốn, sinh lời và tích lũy. Chính vì vậy, thị trường tài chính có
chức năng nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền
kinh tế, kích thích đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến để tăng hiệu quả đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế xã hội.
Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là làm gia tăng tính
thanh khoản cho các tài sản tài chính. Tính thanh khoản là tính chất dễ
dàng chuyển hóa các tài sản tài chính thành tiền mặt và được thực hiện
ở thị trường thứ cấp, là thị trường mua bán, giao dịch cổ phiếu và các
giấy tờ có giá đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Tính thanh khoản ở
thị trường tài chính càng cao thì càng thu hút nhiều chủ thể tham gia
vào thị trường và giúp chủ sở hữu các tài sản tài chính dễ dàng chuyển
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 6
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
đổi danh mục đầu tư theo yêu cầu. Do đó, mỗi thị trường khác nhau có
tính thanh khoản khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển các định
chế tài chính của thị trường ấy. Nếu các cơ chế của thị trường thông
thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính lưu thông
thông suốt. Ngoài ra, thị trường tài chính còn có chức năng định giá tài
sản tài chính, phân phối vốn trên thị trường theo tín hiệu của thị
trường.
Tùy thuộc vào các chức năng khác nhau của thị trường cũng như
các tiêu chí phân loại khác nhau, thị trường tài chính cũng có nhiều
cách phân loại khác nhau. Nhưng tựu trung lại, thị trường tài chính
thường có ba cách phân loại cơ bản: theo thời hạn, tính chất luân
chuyển vốn và theo cơ cấu của thị trường.
4. Phân loại thị trường tài chính:
Căn cứ theo thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được
phân thành: thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng
khoán.
- Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ
có giá ngắn hạn. Các chứng từ có giá ngắn hạn như: tín phiếu Kho
bạc, khoản vay ngắn hạn giữa các Ngân hàng, thỏa thuận mua lại,
chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, … Đây là thị trường nhằm thỏa mãn
những nhu cầu vốn trong ngắn hạn. Căn cứ theo mục đích này của thị
trường mà không cần quan tâm đến thời hạn của các chứng từ có giá,
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 7
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
khái niệm trên được hiểu theo nghĩa của thị trường mở thì thị trường
tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá.
- Thị trường hối đoái là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi
ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế. Thị trường ngoại hối là
một cơ chế mà nhờ đó giá trị tương đối của các đồng tiền quốc gia
được xác lập. Đặc điểm của thị trường ngoại hối là tiền được đổi lấy
tiền, đây là thị trường thực sự và tất yếu mang tính quốc tế; cứ khi nào
mà dân chúng ở những khu vực đồng tiền khác nhau còn kinh doanh
với nhau thì các giao dịch ngoại hối còn rất cần thiết. Ngày nay, thị
trường hối đoái mang tính toàn cầu nhờ sự phát triển của công nghệ
thông tin. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp trong
nước đều phải tham gia các thị trường hối đoái để mua - bán, vay - cho
vay ngoại tệ. Các nghiệp vụ trên thị trường hối đoái phần lớn mang
tính chất ngắn hạn (không quá một năm) nên thị trường này được xem
là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Khi đó, thị trường tài chính chỉ
bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Thị trường chứng khoán là thị trường giao dịch, mua bán các
chứng từ có giá trung hạn và dài hạn. Thị trường chứng khoán là một
bộ phận quan trọng nhất của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế
chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành; qua đó, thực
hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung
và dài hạn cho nền kinh tế. Sản phẩm tài chính trên thị trường chứng
khoán là các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 8
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
như: chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phát sinh - hợp đồng tương lai,
quyền chọn, quyền mua cổ phiếu, chứng quyền. Thị trường chứng
khoán tập trung vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế. Do đó, nó có tác
động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Căn cứ vào cơ cấu của thị trường, thị trường tài chính được phân
thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành lần đầu các chứng từ
có giá để huy động và tập trung vốn. Trên thị trường này, vốn từ nhà
đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư
mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp có đặc điểm
là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành,
tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho
toàn bộ nền kinh tế. Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ
cấp thường là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, Công ty phát hành, Tập
đoàn bảo lãnh phát hành, …Thị trường sơ cấp thường diễn ra trong
một thời gian nhất định.
- Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán trao đổi các chứng từ
có giá đã phát hành lần đầu. Trên thị trường này, các nhà đầu tư
chuyển nhượng quyền mua bán chứng khoán và điều đó làm cho
chứng khoán đã phát hành có tính thanh khoản. Khoản tiền thu được
từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh
doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành nên luồng tiền
chỉ vận chuyển giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường.
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 9
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng
khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Giao dịch trên thị trường
thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá giao dịch chứng
khoán do cung - cầu trên thị trường quyết định.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Thị trường sơ cấp là cơ sở và là tiền đề cho sự hình thành và
phát triển của thị trường thứ cấp; vì đó là nơi cung cấp hàng hóa
chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, thị trường
thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường sơ
cấp; vì nếu không có thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi
tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán thì rất khó để phát hành và
thu hút nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ
cấp và thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trên thực tế, tổ chức
thị trường không phân biệt đâu là thị trường sơ cấp, đâu là thị trường
thứ cấp. Vì tại một thị trường có thể cùng diễn ra đồng thời hoạt động
mua bán chứng khoán mới phát hành và chứng khoán mua bán lại.
Điều cần quan tâm là phải coi trọng thị trường sơ cấp vì đây là thị
trường tạo vốn và có cơ chế giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp để
bảo vệ thị trường tài chính ổn định.
Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, thị trường tài chính được
phân thành thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn.
- Thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành, mua bán các
chứng khoán nợ. Thực chất các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 10
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
phiếu, …) là các thỏa thuận có tính hợp đồng. Trong đó, người vay
vốn thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong
những khoản thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới kỳ hạn cuối
cùng thì thanh toán giá trị gốc. Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ
nợ được chia làm ba loại khác nhau:
- Công cụ nợ ngắn hạn.
- Công cụ nợ trung hạn.
- Công cụ nợ dài hạn.
Quan hệ vay mượn dựa trên công cụ nợ thường ấn định trước
thời hạn và lãi suất cố định. Người sở hữu công cụ nợ không có quyền
biểu quyết trong quản trị điều hành của bên vay.
- Thị trường công cụ vốn là thị trường phát hành, mua bán các
chứng khoán vốn. Vốn được huy động trên thị trường bằng việc bán
cổ phần, chứng chỉ quỹ đầu tư, …Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ
đông, họ góp vốn vào các doanh nghiệp cổ phần trên cơ sở gắn liền
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được chia cổ
tức dựa trên kết quả kinh doanh theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ.
Chính vì vậy mà giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ
nợ nhưng cổ tức có thể cao hoặc thấp hơn lãi trái phiếu, vì nó tùy
thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng họ có quyền
biểu quyết trong quản trị điều hành doanh nghiệp vì họ là chủ sở hữu.
Người giữ chứng khoán vốn có nhiều rủi ro hơn người giữ chứng
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 11
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
khoán nợ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Người giữ chứng
khoán nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước.
Ngoài ra, trong cách phân loại này, còn có thị trường công cụ
phái sinh. Đây là thị trường phát hành và mua bán các chứng khoán
phát sinh, như: chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng tương lai, …
Ngày nay, một thị trường tài chính không nhất thiết phải có
không gian vật lý. Vì vậy, thị trường tài chính còn được phân theo thể
thức sau:
- Thị trường thô sơ và thị trường vi tính hóa.
- Thị trường thường trực và thị trường huy động.
- Thị trường chứng khoán đã đăng ký và thị trường
lưu lượng chứng khoán.
Mỗi cách phân loại thị trường tùy thuộc vào tiêu chí mà chúng ta
muốn hướng đến. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thị trường tài chính
tại Việt Nam cũng đã được hình thành và phát triển. Nhằm đánh giá
thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, tiểu luận này chỉ tập
trung phân tích trên ba thị trường trong phân loại theo thời hạn luân
chuyển vốn. Đó là thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường
chứng khoán.
B. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT
NAM
1. Thị trường tiền tệ:
a) Thị trường vốn ngắn hạn:
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 12
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
(Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ)
Nhìn chung, thị trường này chưa thực sự phát triển và Ngân hàng Nhà
nước (NHTW) chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị
trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất
đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường.
Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ
bắt buộc thiếu linh hoạt. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) và Tổ
chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một
cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
b) Thị trường liên ngân hàng
Hoạt động Ngân hàng hiện đang nóng với những diễn biến trái
chiều và ba vấn đề nổi cộm: các Ngân hàng thương mại khan hiếm
tiền đồng Việt Nam, cung ngoại tệ trong nền kinh tế tăng cao và sức
ép dư luận về chống lạm phát từ việc cung ứng tiền ra lưu thông.
Ba vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đáp ứng
nhu cầu về tiền đồng Việt Nam, cũng như cung ngoại tệ quá lớn và
tăng mạnh, thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phải đẩy
mạnh mua ngoại tệ vào cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông. Song
cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông thì lại gặp phải sức ép của dư
luận về chống lạm phát đang tăng cao từ góc độ tiền tệ.
Càng về cuối năm khối lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam
càng tăng mạnh, lớn nhất đó là kiều hối. Cũng về thời điểm cuối năm,
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 13
GVHD: PGS-TS.NGUYỄN ĐĂNG DỜN TIỂU LUẬN
các NHTM cổ phần và doanh nghiệp cổ phần gấp rút phát hành cổ
phiếu mới để hoàn thành kế hoạch năm 2007 về tăng vốn điều vốn lệ
theo nghị quyết đại hội cổ đông biểu quyết nhất trí từ đầu năm. Cổ
đông là người Việt Nam ở nước ngoài, cổ đông nước ngoài phải
chuyển tiền về Việt Nam để góp vốn. Một bộ phận khác người Việt
Nam ở nước ngoài chuyển tiền về cho người thân vay mượn hoặc đầu
tư hộ vào các loại trái phiếu khác nhau.
Bên cạnh đó là tiền từ nước ngoài chuyển về đầu tư vào thị
trường trường bất động sản. Một nguồn vốn ngoại tệ quan trọng khác
đó là vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán (TTCK) Việt
Nam thường sôi động vào cuối năm. Số vốn này bao gồm cả việc mua
chứng khoán trên Sở GDCK TP.HCM, Trung tâm GDCK Hà Nội, cả
số vốn mua cổ phần trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Tất cả số ngoại tệ đó phải chuyển sang nội tệ, tức là đồng Việt
Nam. Song NHNN Việt Nam với tư cách người mua bán cuối cùng
can thiệp trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thì hạn chế mua vào.
Những nguồn vốn ngoại tệ lớn tiếp theo đó là vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, vốn ODA và nguồn thu từ khách quốc tế chi tiêu tại
Việt Nam.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu, đến hết tháng 11/2007, Việt Nam
đạt kim ngạch nhập khẩu 54,11 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ
năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu tăng 20, nhập siêu 9,0 tỷ USD và dự
NHÓM 3 LỚP CH 16 NGÂN HÀNG ĐÊM 1 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét