5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
Còn đối với các loại hàng hoá khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
2. Tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ rất quan trọng để nhà nước
thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào từng giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế
- xã hội của mỗi nước mà thuế quan được sử dụng với nhiều mục tiêu khác
nhau. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất có thể nhận thấy rằng tính chất của
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho ngân sách
nhà nước. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ðồng thời thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế dễ thu nhất, ít bị phản ứng từ phía trong
nước, thậm chí có khi còn được sự ủng hộ của nhiều người.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm
tăng giá hàng hoá, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và
hướng dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu phụ
thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả
hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của
hàng hoá đó trên thị trường. Thông qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhà
nước điều tiết việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá . Hơn nữa, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng
hoá không được khuyến khích sử dụng như thuốc lá, rượu, bia
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong
nước. Việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp các nhà sản xuất
trong nước có thể cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu. Ðặc biệt thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
5
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
5
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
các ngành còn non trẻ trong nước có thời gian trưởng thành và sinh lời để từ
đó có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất nghiệp vì
việc đánh thuế nhập khẩu cao thì hàng hoá nhập khẩu sẽ giảm; để bù vào
lượng hàng hoá nhập khẩu đó nhà nước ta phải mở rộng đầu tư, phát triển sản
xuất, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động từ đó góp phần giải
quyết nạn thất nghiệp trong nước.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chính
sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với các nước. Chẳng hạn
Mỹ đòi EU phải giảm từ 30 - 50% trợ cấp cho nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ
tăng mức thuế đánh vào hàng hoá nông sản của EU nhập khẩu vào thị trường
Mỹ.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngọai giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ quan trọng để Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý và nâng cao hiệu qủa hoạt động xuất nhập khẩu trong
cả nước.
3. Mã số thuế:
Danh mục mặt hàng chịu thuế cuả biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế
nhập khẩu hiện hành, về cơ bản được xây dựng dựa trên cơ sở bảng
danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cuả Hội đồng hợp tác hải quan
thế giới (Hamorid System), đồng thời có biến đổi một số phần cụ thể cho phù
hợp với hoạt động xuất, nhập khẩu cuả Việt Nam. Hàng hoá trong bảng danh
mục biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu hiện hành được chia thành 21
phần, 97 chương ( trừ chương 77 được để trống để dự phòng). Trong mỗi
chương cuả biểu thuế chia ra các nhóm hàng (cấp độ 4 chử số), trong mỗi
nhóm hàng có thể phân chia thành các phân nhóm hàng ( cấp độ 6 chử số), và
trong mỗi phân nhóm hàng có thể phân chia thành các mặt hàng ( cấp độ 8
6
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
6
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
chử số) .Tuỳ theo đặc điểm, tính chất cấu tạo cuả từng chương, nhóm, phân
nhóm và mặt hàng mà một chương có thể được chia thành một hay nhiều
nhóm hàng, một nhóm hàng có thể không chia hoặc được chia thành nhiều
phân nhóm hàng, một phân nhóm hàng có thể không chia hoặc chia thành
nhiều mặt hàng khác nhau.
Ðể thuận tiện trong việc tra cứu biểu thuế và làm thủ tục hải quan đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, về cơ bản tất cả các nhóm hàng, phân nhóm
hàng, mặt hàng đều được mã hoá theo số thứ tự cuả mặt hàng đó trong
chương, nhóm và phân nhóm. Trong đó:
- Mỗi nhóm hàng trong chương được xác định bằng 4 chử số. Ví dụ nhóm
trâu, bò sống được mã hoá bằng mã hiệu 0102, trong đó 2 chử số đầu (01) là
mã hiệu cuả chương (chương 1), hai chử số sau (02) là mã hiệu xác định vị
trí cuả nhóm đó trong chương (nhóm thứ 2 cuả chương).
- Mỗi phân nhóm hàng trong nhóm được xác định bằng 6 chử số. Có hai
cách phân loại và mã hiệu cho các phân nhóm hàng, gọi l;à phân nhóm cấp 1
và phân nhóm cấp 2.
- Một số nhóm hàng không được phân chia thành nhiều phân nhóm hàng
khác nhau thì sẽ được thêm hai chử số 00 vào sau cùng.
- Một số phân nhóm hàng trong biểu thuế được phân chia tiếp thành nhiều
mặt hàng khác nhau. Mỗi mặt hàng trong phân nhóm được xác định bằng 8
chử số.
- Tuy nhiên cũng có một số trường hợp các phân nhóm hàng được phân
chia tiếp thành nhiều mặt hàng khác nhau nhưng không xác định mã số cho
chúng.
Theo cách sắp xếp danh mục và mã số cuả nhóm hàng, phân nhóm hàng, mặt
hàng nói trên thì biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành được phân
thành 3 cột, trong đó:
- Cột thứ nhất là cột mã số của nhóm hàng, phân nhóm hàng và mặt hàng.
7
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
7
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
- Cột thứ hai là cột mô tả tên nhóm hàng, phân nhóm hàng và mặt hàng.
- Cột thứ 3 là cột quy định mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
cho nhóm hàng; hoặc cho phân nhóm hàng; hoặc cho mặt hàng. Do đó khi tra
cứu mã số và mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cuả một mặt
hàng cụ thể nào đó cần xem nhóm hàng và mặt hàng này nằm trong đó được
chia chi tiết đến mức độ nào: Nhóm , phân nhóm cấp 1, phân nhóm cấp 2 hay
mặt hàng để xác định chính xác mức thuế cuả mặt hàng này trong biểu thuế.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LUẬT THUẾ XUẤT
KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU:
1. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch 1987:
Luật có hiệu lực thi hành từ 01/2/1988. Trong luật quy định hàng hóa bị
đánh thuế là hàng mậu dịch.
- Thuế được áp dụng với tất cả hàng hoá mua bán, trao đổi với nước ngoài
khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu qua biên giới Việt Nam (trừ hàng hoá xuất,
nhập khẩu có sự thoả thuận riêng về thuế xuất nhập khẩu giữa Chính phủ
Việt Nam với các nước khác).
- Tất cả các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu hàng hoá đều phải
nộp thuế xuất, nhập khẩu hàng mậu dịch.
- Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán tại cửa khẩu đi, theo
hợp đồng; đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu đến, kể cả phí
vận tải, phí bảo hiểm theo hợp đồng. Trong trường hợp mua hoặc bán theo
các phương thức khác thì căn cứ vào giá ghi trên các chứng từ hợp lệ. Tỷ giá
giữa đồng Việt nam với tiền nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước Việt nam
công bố.
- Thuế suất đối với hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu được áp dụng theo hai
mức ghi trong hai cột: thuế suất tối thiểu và thuế suất phổ thông
- Thuế suất tối thiểu áp dụng với hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu liên
quan đến các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với
Việt Nam và những trường hợp khác do Hội đồng Bộ trưởng quy định. Thuế
8
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
8
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
suất phổ thông áp dụng với hàng hoá xuất nhập khẩu qua các nước khác,
ngoài những trường hợp ghi trên đây.
2. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991:
- Danh mục các nhóm hàng, mặt hàng trong biểu thuế XNK được xây dựng
dựa trên hệ thống danh mục hàng hoá và mã hoá thống nhất của Hội đồng
hợp tác Hải quan quốc tế (ký tại Bruxelles ngày 19-6-1983) gồm 97 chương
và hơn hai nghìn nhóm ngành hàng. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho ta
từng bước hoà nhập vào quá trình hợp tác quốc tế về thuế quan và mậu dịch,
khắc phục những tồn tại đã gặp khi áp dụng danh mục cũ theo khối SEV quá
đơn giản.
- Biểu thuế gồm 2 cột: thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi, tương
tự như cột thuế suất phổ thông và cột thuế suất tối thiểu trong biểu thuế XNK
mậu dịch cũ. Tuy nhiên, có điểm khác là ở luật cũ, 2 loại thuế suất này đều
được ghi trong biểu thuế; ở Luật mới, trong biểu thuế chỉ ghi thuế suất thông
thường, còn thuế suất ưu đãi là thuế suất áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu đối với các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ mua
bán với Việt nam và những trường hợp khác do Hội đồng Bộ trưởng quyết
định (Ví dụ trường hợp không có ký kết nhưng Chính phủ ta đơn phương cho
một nước nào đó được hưởng mức thuế ưu đãi này trong quan hệ buôn bán
với ta). Theo Nghị định số 110-HĐBT ngày 31/3/1992 thì thuế suất ưu đãi
được áp dụng thống nhất bằng 70% thuế suất thông thường ghi trong biểu
thuế. Các trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi khác với quy định trên sẽ do
Hội đồng Bộ trưởng quyết định cụ thể theo đề nghị của Bộ Tài chính và các
Bộ có liên quan.
3. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1993:
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1993 không có những thay đổi lớn về
mặt chính sách mà chỉ có những sửa đổi bổ sung một số điều.
4. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1998:
9
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
9
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
Việc áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng (bắt đầu từ 1/1/1999) cả đối với
hàng nhập khẩu đòi hỏi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (thuế XNK)
phải được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính đồng bộ trong các chính sách
thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu, không ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời phải phát huy tác dụng
của thuế xuất khẩu, nhập khẩu khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho hoạt động xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước theo tinh thần
bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn, phù hợp với tiến trình hội nhập
quốc tế.
Mặt khác, Việt nam đã là thành viên của ASEAN, tham gia vào khu vực
mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA), đã ký Hiệp định thương mại với Liên
hiệp Châu âu, chuẩn bị trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và chuẩn bị điều kiện gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO)- Hoàn cảnh đó đòi hỏi Luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu của ta phải có những sửa đổi, bổ sung để tạo ra những cơ sở pháp lý cần
thiết cho việc thực hiện những cam kết quốc tế, góp phần bảo vệ lợi ích quốc
gia.
- Thuế suất mới đối với hàng nhập khẩu gồm thuế suất thông thường, thuế
suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt:
+ Thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ
nước không có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với
Việt nam: Thuế suất thông thường được quy định cao hơn không quá 70% so
với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng, do Chính phủ quy định;
+ Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước
có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định biểu thuế theo danh mục, nhóm hàng
chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng. Căn cứ vào Biểu thuế
do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành, Chính phủ quy định Biểu thuế
theo danh mục mặt hàng và thuế suất cụ thể đối với từng mặt hàng;
10
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
10
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
+ Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ
nước mà Việt nam và nước đó đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập
khẩu. Chính phủ quy định thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với từng mặt hàng
theo thoả thuận đã được ký kết với các nước.
Ngoài việc nộp thuế theo quy định trên, đơn vị có hàng hoá được nhập
khẩu vào Việt nam trong các trường hợp sau đây còn phải nộp thêm thuế
nhập khẩu bổ sung theo tỷ lệ do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định:
+ Giá bán của hàng đó quá thấp so với giá thông thường do bán phá giá,
gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự của Việt
nam;
+ Giá bán của hàng đó quá thấp so với giá thông thường do có sự trợ cấp
của nước xuất khẩu, gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá
tương tự của Việt nam;
+ Có xuất xứ từ nước có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có
những biện pháp phân biệt đôí xử khác đối với hàng hoá của Việt nam.
- Luật sửa đổi, bổ sung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn quy định
thêm một số nguyên tắc, thẩm quyền của cơ quan thuế về kiểm tra, truy thu
thuế xuất khẩu, nhập khẩu nếu phát hiện có sự khai man, trốn thuế hoặc
nhầm lẫn trong việc tính thuế để có căn cứ pháp lý giải quyết trường hợp sau
khi thu, nộp thuế xong mới phát hiện khai man, trốn thuế, nhầm lẫn về thuế,
một vướng mắc thường phát sinh vì chưa có qui định rõ ràng, đầy đủ trong
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu trước đây.
5. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005:
Một trong những nội dung quan trọng nằm trong dự án sửa đổi lần này là
về thời hạn nộp thuế. Tại Khoản 3, Điều 17 của Luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu hiện hành quy định cho phép doanh nghiệp được hưởng một thời gian
ân hạn thuế nhất định là 15 ngày, 30 ngày hoặc 275 ngày sau khi xuất, nhập
khẩu hàng hóa, tùy theo tính chất vào loại hình xuất, nhập khẩu. Chỉ riêng
đối với loại hàng tiêu dùng nhập khẩu thì phải nộp xong thuế trước khi nhận
11
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
11
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
hàng. Các quy định trên đã có tác dụng tích cực, giảm bớt khó khăn về vốn,
giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất nhập khẩu và phát triển sản xuất, kinh
doanh.
Đối với quy định về thông báo thuế, dự án Luật sửa đổi đề nghị bỏ thông
báo thuế, thay vào đó đối tượng nộp thuế sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế của
mình trên cơ sở căn cứ vào tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Theo
hướng này, thời điểm tính thuế là thời điểm đối tượng nộp thuế đăng ký tờ
khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với cơ quan Hải quan. Tờ khai hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu cũng đồng thời được xem như tờ khai thuế. Đối với
những trường hợp phải có kiểm tra, giám định thì đối tượng nộp thuế vẫn
phải nộp thuế theo như khai báo tại tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Sau khi có kết qủa kiểm tra, giám định nếu có thay đổi về số thuế phải nộp,
cơ quan Hải quan ra thông báo về số thuế phải nộp thêm hoặc số thuế phải
hoàn lại. Quy định như vậy cũng phù hợp với việc tiến tới thống nhất cơ chế
tự tính, tự khai, tự nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thống nhất quy định về ưu đãi thuế:
Theo Luật thuế xuất khẩu (XK), thuế nhập khẩu (NK) (sửa đổi) được Quốc
hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 7, có hiệu lực từ 1-1-2006, có một nội
dung quan trọng đang được giới doanh nghiệp trông đợi, đó là việc quy định
thống nhất về ưu đãi thuế giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời
trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi đã thống nhất các quy định
về ưu đãi thuế XK, thuếNK tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) đã thống nhất các quy định về ưu đãi
thuế XK, thuế NK mà trước đây đã được quy định rải rác tại các văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là từ 1-1-2006, các quy
định về ưu đãi, miễn, giảm thuế đang được quy định tại các Luật chuyên
ngành khác bị bãi bỏ. Bên cạnh đó, Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) cũng
quy định thống nhất chính sách ưu đãi giữa các doanh nghiệp trong nước và
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ sự phân biệt, dành ưu đãi
12
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
12
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
cao hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Luật hiện hành.
Vấn đề đặt ra khi triển khai thực hiện Luật mới thì cơ quan chức năng cần
xây dựng các Phụ lục về địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; địa
bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khãn; Danh mục lĩnh vực
khuyến khích đầu tư; Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; Danh
mục các nhóm trang thiết bị chỉ được miễn thuế NK một lần.
Luật thuế XK, thuế NK hiện hành quy định việc miễn thuế nhập khẩu đối
với đầu tư nước ngoài theo Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư tại
các Phụ lục hành kèm theo Nghị định (NĐ) số 35/2002/NĐ-CP ngày 29-3-
2002 của Chính phủ. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định về miễn thuế NK được
áp dụng theo các Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định
của Luật đầu tư chung (đã được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 8 vừa
qua) là phương án tối ưu nhất. Tuy nhiên, Luật đầu tư chung lại có hiệu lực
thi hành kể từ sau ngày 1-7-2006, vì vậy, Bộ Tài chính đã chủ động dự thảo
các Phụ lục về Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư để ban hành kèm
theo Nghị định hướng dẫn Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổi. Và sau này khi
Luật Đầu tư chung có hiệu lực, việc ban hành các Phụ lục mới cần được
nghiên cứu để khớp các Phụ lục về một đầu mối. Việc xây dựng các Phụ lục
về Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư hiện tại có 2 loại ý kiến: Phần
lớn ý kiến cho rằng việc xây dựng các Phụ lục trên nên dựa theo tinh thần
của Luật mới tức là lấy mức ưu đãi cao nhất của Luật đầu tư. nước ngoài và
Luật khuyến khích đầu tư trong nước, do đó các Phụ lục nêu trên sẽ được
tổng hợp dựa trên các Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 24, NĐ số 27 (Đầu
tư nước ngoài) và NĐ số 35 (Đầu tư trong nước) theo hướng lấy quy định
cao nhất hoặc rộng hơn tại các Phụ lục, vì vậy chủ yếu sẽ dựa trên nền tảng là
NĐ 24 và NĐ 27, bởi vì quy định tại 2 NĐ này rộng mở hơn so với NĐ 35.
Một số ý kiến khác cho rằng có thể dựa trên nền tảng là các Phụ lục ban
hành kèm theo NĐ số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo ý kiến này,
13
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
13
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Luật
điểm thuận lợi là có thể sử dụng được ngay bởi vì các Phụ lục này đã được
xây dựng để áp dụng thống nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, về bản chất giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế XK,
thuế NK có những điểm khác nhau, do vậy nếu sử dụng các Phụ lục này để
áp dụng cho thuế XK, thuế NK thì chưa thật sự hợp lý. Hơn nữa quy định tại
các Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 164 cũng bó hẹp và chỉ tương đương
so với mức độ mở của Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 35, chứ không
khuyến khích rộng như quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo NĐ 24 và
NĐ 27. Do vậy, theo chúng tôi để đảm bảo tính khả thi khi thực hiện Luật
thuế XK, thuế NK mới được Quốc hội thông qua thì cần khẩn trương xây
dựng các Phụ lục về Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư kèm theo
Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật theo đúng tinh thần của Luật mới,
tức là lấy mức ưu đãi cao nhất của Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến
khích đầu tư trong nước để các doanh nghiệp về cơ bản được hưởng ưu đãi
không kém thuận lợi hơn so với trước đây. Việc này sẽ củng cố lòng tin cho
các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động tại Việt Nam và các
nhà đầu tư tiềm năng. Đó là dấu hiệu tích cực đối với việc cải thiện môi
trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn hơn.
Bên cạnh đó, Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) cũng quy định thống nhất
chính sách ưu đãi giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ sự phân biệt, dành ưu đãi cao hơn cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Luật hiện hành. Vấn đề đặt ra
khi triển khai thực hiện Luật mới thì cơ quan chức năng cần xây dựng các
Phụ lục về địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; địa bàn có điều kiện
kinh tế-xã hội đặc biệt khó khãn; Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư;
Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; Danh mục các nhóm trang
thiết bị chỉ được miễn thuế NK một lần.
Luật thuế XK, thuế NK hiện hành quy định việc miễn thuế nhập khẩu đối
với đầu tư nước ngoài theo Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư tại
14
Vũ Thị Hợp Luật kinh doanh 45
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét